Phật pháp ứng dụng tụng kinh

Bác nông dân rất thiết tha 
Đi mời tu sỹ về nhà tụng kinh 
Cầu cho vợ được siêu sinh
Vợ yêu khuất núi, gia đình nhớ nhung. 
Khi tu sỹ tụng kinh xong

Bác bèn ướm hỏi với lòng hoài nghi: 
"Phước do lời tụng kinh kia
Vợ tôi chẳng biết hưởng gì được chăng?

Mỉm cười tu sỹ nói rằng:
"Tụng kinh lợi ích sẽ mang tốt lành 
Lợi cho bác gái đã đành
Còn cho tất cả chúng sinh hữu tình!" 

Bác nông dân chợt lặng thinh
Rồi lo ngại hỏi: 
"Tụng kinh phước nhiều 
Vợ tôi hưởng được bao nhiêu
Theo như thầy nói những điều mới đây 
Chúng sinh chung hưởng phước này 
Sẽ giành sẽ giật hết ngay phước rồi 
Vợ tôi yếu đuối, thua người
Hưởng chi công đức của lời cầu kinh, 
Thầy ơi! Thầy có thương tình
Xin thầy chỉ tụng cho mình bà thôi!" 

Ôn tồn tu sỹ trả lời:
"Người con Phật phải sống đời từ bi 
Lòng tham, tự ngã dẹp đi
Quyết tâm hồi hướng phân chia phước lành, 
Tụng kinh công đức tạo thành
Hiến dâng cùng khắp chúng sinh muôn loài!".

*
Bác nông dân ngẫm nghĩ hoài 
Sau khi nghe kỹ được bài giảng trên

Cuối cùng bác khẽ thốt lên: 
"Lời thầy vừa dạy quả nhiên tốt lành
Nhưng xin thầy hãy nể tình 
Trừ ra một kẻ gian manh, xấu tồi
Đó là hàng xóm của tôi
Bất lương, hung bạo, lắm lời xưa nay, 
Xin thầy loại hắn ra ngay
Đừng chia phước báu khi thầy tụng kinh 
Đừng cho hắn hưởng an bình
Loại ra khỏi đám chúng sinh của thầy!"

Xem thêm:

Tụng Kinh

Phật pháp ứng dụng tụng kinh

Bác nông dân rất thiết tha 
Đi mời tu sỹ về nhà tụng kinh 
Cầu cho vợ được siêu sinh
Vợ yêu khuất núi, gia đình nhớ nhung. 
Khi tu sỹ tụng kinh xong

Bác bèn ướm hỏi với lòng hoài nghi: 
"Phước do lời tụng kinh kia
Vợ tôi chẳng biết hưởng gì được chăng?

Mỉm cười tu sỹ nói rằng:
"Tụng kinh lợi ích sẽ mang tốt lành 
Lợi cho bác gái đã đành
Còn cho tất cả chúng sinh hữu tình!" 

Bác nông dân chợt lặng thinh
Rồi lo ngại hỏi: 
"Tụng kinh phước nhiều 
Vợ tôi hưởng được bao nhiêu
Theo như thầy nói những điều mới đây 
Chúng sinh chung hưởng phước này 
Sẽ giành sẽ giật hết ngay phước rồi 
Vợ tôi yếu đuối, thua người
Hưởng chi công đức của lời cầu kinh, 
Thầy ơi! Thầy có thương tình
Xin thầy chỉ tụng cho mình bà thôi!" 

Ôn tồn tu sỹ trả lời:
"Người con Phật phải sống đời từ bi 
Lòng tham, tự ngã dẹp đi
Quyết tâm hồi hướng phân chia phước lành, 
Tụng kinh công đức tạo thành
Hiến dâng cùng khắp chúng sinh muôn loài!".

*
Bác nông dân ngẫm nghĩ hoài 
Sau khi nghe kỹ được bài giảng trên

Cuối cùng bác khẽ thốt lên: 
"Lời thầy vừa dạy quả nhiên tốt lành
Nhưng xin thầy hãy nể tình 
Trừ ra một kẻ gian manh, xấu tồi
Đó là hàng xóm của tôi
Bất lương, hung bạo, lắm lời xưa nay, 
Xin thầy loại hắn ra ngay
Đừng chia phước báu khi thầy tụng kinh 
Đừng cho hắn hưởng an bình
Loại ra khỏi đám chúng sinh của thầy!"

Xem thêm:
Đọc thêm..
Chân lý chỉ có một, làm gì có tới bốn? Mà không có bốn thì “một” cũng không cần nói, cho nên danh từ thích hợp nhất để chỉ Phật pháp là Pháp “không hai.” Vậy mà thông thường, ta vẫn quen gọi “tứ diệu đế” là “bốn chân lý vi diệu” với chân lý thứ nhất là KHỔ, chân lý thứ hai là TẬP, v.v… 

Có lẽ danh từ Anh ngữ “The Fourfold Truth” ít gây hiểu lầm hơn; có nghĩa là chân lý có bốn tầng lớp, bốn yếu tố, bốn giai đoạn thể nghiệm hay bốn gì gì đó cũng được tùy ý, miễn không phải là bốn chân lý. Nói rõ hơn, tứ diệu đế có nghĩa là bốn giai đoạïn để đi đến cái chân lý vi diệu cứu cánh, tức niết bàn. 


Phật pháp ứng dụng Nhất Đế

Đây là một phương pháp đức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta đã khám phá để thể nghiệm chân lý tối hậu, Niết bàn, sự dập tắt hoàn toàn cái KHỔ. Phương pháp này có thể so sánh với phương pháp y học gồm bốn giai đoạn mà mục tiêu tối hậu là tình trạng vô bệnh, hết hẳn bệnh tật, lành mạnh hoàn toàn. Bốn giai đoạn ấy là:

Chẩn đoán bệnh trạng qua những triệu
chứng
Tìm nguyên nhân của bệnh
Cách chữa trị
Sự phục hồi hoàn toàn sức khỏe, sự hết bệnh.

Trong y học, sự chẩn bệnh cho đúng là điều quan trọng bậc nhất. Định đúng bệnh trạng là đã đi quá nửa con đường chữa trị, do đó sự chẩn bệnh đứng hàng đầu. Cũng thế, muốn diệt khổ, đạt tới Niết bàn (tức DIỆT, đứng hàng thứ 3 trong Tứ diệu đế) thì cốt nhất phải biết rõ cái KHỔ, như muốn hết bệnh thì trước tiên phải biết bệnh đó là bệnh gì. KHỔ như vậy tương ứng với giai đoạn một trong y học. Tập, nguyên nhân của khổ là giai đoạn hai. 

Đạo, con đường đưa đến diệt khổ là giai đoạn ba. Diệt (hay Niết bàn), sự hết khổ, là giai đoạn cuối cùng, mục đích tối hậu, vì mục đích này mà có ra ba giai đoạn trước, hệt như trong y học, sở dĩ phải tìm căn bệnh (1), nguyên nhân (2), cách chữa trị (3), là vì muốn phục hồi sức khỏe cho con bệnh, đạt đến tình trạng hoàn toàn không bệnh.

Như vậy trong “bốn diệu đế” có một sự nhất quán triệt để, cả bốn giai đoạn tương quan mật thiết không thể tách rời. Sự tách rời ra làm “bốn chân lý” đưa đến những sai lầm trọng đại trong việc lý giải (hiểu) và hành trì (làm) Phật pháp. Trong kinh Thắng Man, đức Phật nói rõ chỉ một đế chân thật duy nhất là Diệt đế (thứ ba trong bốn diệu đế), ba đế kia đều là giả lập, vì Diệt đế mà có ra. So sánh với y học như trên thì thấy rất rõ.

Những ngộ nhận vì tách rời “bốn chân lý” rất tai hại không thể nói xiết, trở thành bóp méo xuyên tạc Pháp Phật. Thông thường nhất là sự lên án: “Phật pháp bi quan yếm thế vì cho đời là khổ. Thì đấy: Chân lý thứ nhất là Khổ.” Những người lên án như vậy sẽ nghĩ sao khi đọc kinh Thắng Man về Nhất đế, theo đó chỉ có “chân lý thứ 3,” tức Niết bàn (an vui tuyệt đối) là thật, là cứu cánh?

Nhưng đó chỉ là ngộ nhận của người ngoại cuộc, không đáng nói làm chi. Đến như Phật tử, có người nghe nói đến Tập là nguyên nhân của khổ, vội dừng lại ở đây và kết luận: “À, thì ra mọi cái khổ mình chịu đều do tập quán từ đời trước, do cái “nghiệp” mình đã gây ra, thì chỉ còn nước rán chịu.” Vì nghĩ như vậy mà mọi sự đều đổ thừa cho nghiệp, không muốn làm gì để chuyển đổi. 

Đó là tai hại gây nên bởi sự hiểu bốn diệu đế một cách phiến diện rời rạc, trong trường hợp này người ta chỉ chú trọng đến Tập, tách rời nó ra khỏi giáo lý nhất quán của Thế Tôn, trong đó Tập được nêu lên là cốt chỉ cho ta thấy có con đường đoạn diệt Tập, nghĩa là đoạn diệt cái nhân của khổ để chấm dứt khổ.

Khi hiểu được Tập và muốn đoạn diệt nó, có người bước sang giai đoạn tu đạo (Đạo đế) nhưng lại mắc kẹt ở đây vì chấp vào Đạo đế. Khi tu hành, có người chấp vào giới luật, cho đó là cứu cánh, không còn gì hơn. Đó là trường hợp những người tu nhờ giữ gìn giới luật nên được tôn trọng cúng dường, rồi nhân đấy lấy làm tự mãn, nên không tiến lên được. 

Có khi người ấy vượt qua được sự tự mãn về giới, siêng tu thiền định, nhờ giới mà đắc định, do đắc định nên khởi tâm tự mãn: người này bị kẹt ở định, quên mất cứu cánh của mình là để thoát khổ chứ không phải để đắc định hay có thần thông. Lại có người vượt qua được sự tự mãn về định, nhờ không tự mãn nên tu thiền định được rốt ráo, rồi nhờ thiền định mà phát sinh trí tuệ: ở giai đoạn này họ cũng vẫn có thể bị kẹt không tiến đến giải thoát, khi khởi tâm cho rằng ta đây có trí, hơn người, ta biết, kẻ khác không biết. Do đó, người ấy cũng không đạt được Niết bàn. 

Như vậy, giới không phải là Niết bàn, vì nếu giới là Niết bàn tức là Niết bàn có thủ trước (chấp vào giới). Tâm thanh tịnh, đạo tri kiến, v.v... cũng thế, đều không phải Niết bàn, mà chỉ là những giai đoạn đến Niết bàn. Nói tóm, giới, định và cả tuệ nữa đều là những giai đoạn, là những phương tiện để đi đến cùng đích là Niết bàn. Cho nên không thể đắm trước bất cứ giai đoạn nào, dù là tuệ. Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng dạy: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn.” Tự dưng khởi lên cái thấy biết cho rằng ta hay, ta giỏi, ta biết, đó là cội gốc vô minh.

Trên đây đều là những tệ hại phát sinh do không quán triệt lý Nhất đế trong Tứ đế, do căn bệnh trầm kha của con người là ưa chia năm chẻ bảy những gì mà họ tưởng có thể chẻ, chia, nắm bắt.

Xin lặp lại, đức Phật chỉ dạy một chân lý duy nhất là Diệt đế, sự diệt khổ, chứng Niết bàn, thành Phật, như trong Kinh Pháp Hoa Ngài đã dạy: “Ta chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời, đó là chỉ cho chúng sinh tri kiến Phật để ngộ nhập.” “Tri kiến Phật” đó là thấy rõ chỉ có một cái duy nhất chân thật là Niết bàn, ngoài ra đều là giả dối hư huyễn. Chứng diệt đế, Niết bàn có nghĩa là thấy rõ Khổ (phần thứ nhất của Tứ diệu đế). 

Thấy rõ đây là thấy rõ nó không thật,chỉ hiện hữu một cách huyễn hóa, giai đoạn. Vì khổ không thật có nên mới có thể đoạn trừ dễ dàng, nếu khổ là thật thì đoạn cũng uổng công vô ích mà thôi. khổ không thật có, nhưng ta vẫn thấy rõ ràng có khổ là vì sao? Tìm nguyên nhân, ta được biết cái sai lầm căn để là do ở lối nhìn của ta về thân tâm vũ trụ, một lối nhìn lệch lạc bệnh hoạn đã thành tập quán nhiều đời kiếp. 

Vậy chỉ cần sửa cái nhìn lại cho đúng, cũng như hư không vốn không có hoa đốm mà người tự thấy ra có hoa đốm là vì mắt bị bệnh. Tập đế (phần thứ hai trong Tứ diệu đế) — nguyên nhân của khổ — là nói về lối nhìn sai lạc ấy, căn để là thấy thật có cái tôi (do đó có sân), sở hữu của tôi (do đó có tham), thấy có một tự ngã tiếp tục (do đó có si, chấp chặt cái ngã không nỡ rời). 

Muốn đoạn trừ lối nhìn sai lạc ấy cần chữa cái bệnh của con mắt, theo một phương pháp của Phật dạy là Bát chánh đạo, đó là phần thứ tư trong Tứ diệu đế. Vì lối nhìn quan trọng như thế nên đứng đầu Bát chánh đạo là chánh kiến:thấy cho đúng như thật. Thấy đúng như thật thì Niết bàn chân thật được hiển lộ, Khổ, Tập tự tiêu tan, như khi mắt đã được chữa lành lặn bình thường thì bệnh mắt (Tập) hết, mắt hết bệnh thì không còn thấy hoa đốm lăng xăng (khổ) giữa hư không.

Nhưng, Niết bàn, Diệt đế không phải là kết quả của một cái gì, không phải là một mục đích nằm cuối một con đường tu đạo cam go đầy gian khổ, mặc dù thông thường ta đều có ảo tưởng như vậy, và sự trình bày Tứ diệu đế cũng cho ta cái cảm tưởng như vậy. Niết bàn vẫn ở ngay trước mắt ta, sở dĩ ta không thấy là vì mắt ta bệnh. Khi mắt ta hết bệnh thì tự nhiên thấy được hình sắc và hư không. Nhưng không thể nói hư không hình sắc ấy là mục đích, là kết quảcủa cái nhìn, vì tự bao giờ cũng như bây giờ chúng vẫn ở đấy, không vì mắt ta bệnh mà hình sắc biến mất, mắt khỏi bệnh mà hình sắc hiện lên.

Cái thấy có biến, có hiện ấy hoàn toàn là cái thấy chủ quan bệnh hoạn của con mắt, không dính gì tới hư không và hình sắc. Cũng như Niết bàn vẫn luôn luôn tại đây: dù ta có biết khổ, đoạn Tập, tu Đạo thì Niết bàn vẫn ở đó, mà ta không biết Khổ, không đoạn Tập, không tu đạo thì Niết bàn cũng vẫn ở đó không hề xê dịch biến hiện, không vì không tu mà nó bẩn đi hay vì có tu mà nó sạch thêm, như lời thâm thúy sau đây của Nam Nhạc Thiền sư, được Lục Tổ ấn chứng cho là đã ngộ nhập: “Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc.” 

Tu chứng thì vẫn phải tu chứng, nhưng nhiễm ô vốn không có thật. (Điều này tối kỵ để lọt lỗ tai một kẻ ngu, cho nên các thiền sư thường chọn cách truyền đạt bằng gậy gộc và tiếng quát hơn là ngôn ngữ dễ gây ngộ nhận.)

Diệt đế, Niết bàn, nói tóm lại là chân lý duy nhất Phật muốn truyền đạt cho ta chứng nhập, nhưng khốn nỗi, không có danh từ nào để mô tả Niết bàn, nên thường thường Phật ưa dùng những từ ngữ phủ định để ám chỉ, khiến người nghe dễ hiểu lầm Niết bàn là cái gì tiêu cực, thụ động, phi thực: diệt, vô vi, vô tác, vô thủ trước v.v... 

Chúng ta ưa thắc mắc về Niết bàn, muốn biết “nó ra làm sao” trước khi khởi công tu tập, muốn biết thành Phật thì sẽ “như thế nào,” nhưng đức Thế Tôn hoàn toàn im lặng về điểm ấy. Thiên kinh vạn quyển ghi lại 49 năm thuyết pháp của Ngài đều chỉ đề cập đến vô số pháp môn nghĩa là những cái “cửa” để đi vào Pháp, vào Niết bàn, mà không Kinh nào, lời dạy nào mô tả Niết bàn là thế nào cả, bởi vì như Kinh Thắng Man dạy: “Niết bàn siêu việt mọi tư duy mô tả.” Cái đáng nói nhất, cái ta ưa nghe nhất thì khổ thay, Phật lại không thể nói cho ta được, có lẽ vì vậy mà đức Thế Tôn dạy “Trong 49 năm thuyết pháp, ta không nói lời nào.” 

Vì những gì Ngài dạy chỉ là những cái thuộc “vòng ngoài,” những phương tiện, những con đường, những pháp môn giúp ta nương theo để tự tu tự chứng. Theo đúng những đường lối của Phật đã chỉ, ta sẽ chứng được Niết bàn và khi ấy sẽ biết được “nó ra làm sao,” như ai uống nước ngọt thì chỉ riêng kẻ ấy biết mùi vị, một người chưa uống thì dù có nghe nói nước ngọt thế này hay thế nọ cũng không sao biết được, huống chi đối với Niết bàn là cái vượt ngoài tư duy mô tả?

Xem thêm:

Nhất Đế

Chân lý chỉ có một, làm gì có tới bốn? Mà không có bốn thì “một” cũng không cần nói, cho nên danh từ thích hợp nhất để chỉ Phật pháp là Pháp “không hai.” Vậy mà thông thường, ta vẫn quen gọi “tứ diệu đế” là “bốn chân lý vi diệu” với chân lý thứ nhất là KHỔ, chân lý thứ hai là TẬP, v.v… 

Có lẽ danh từ Anh ngữ “The Fourfold Truth” ít gây hiểu lầm hơn; có nghĩa là chân lý có bốn tầng lớp, bốn yếu tố, bốn giai đoạn thể nghiệm hay bốn gì gì đó cũng được tùy ý, miễn không phải là bốn chân lý. Nói rõ hơn, tứ diệu đế có nghĩa là bốn giai đoạïn để đi đến cái chân lý vi diệu cứu cánh, tức niết bàn. 


Phật pháp ứng dụng Nhất Đế

Đây là một phương pháp đức Phật Thích Ca Mâu Ni của chúng ta đã khám phá để thể nghiệm chân lý tối hậu, Niết bàn, sự dập tắt hoàn toàn cái KHỔ. Phương pháp này có thể so sánh với phương pháp y học gồm bốn giai đoạn mà mục tiêu tối hậu là tình trạng vô bệnh, hết hẳn bệnh tật, lành mạnh hoàn toàn. Bốn giai đoạn ấy là:

Chẩn đoán bệnh trạng qua những triệu
chứng
Tìm nguyên nhân của bệnh
Cách chữa trị
Sự phục hồi hoàn toàn sức khỏe, sự hết bệnh.

Trong y học, sự chẩn bệnh cho đúng là điều quan trọng bậc nhất. Định đúng bệnh trạng là đã đi quá nửa con đường chữa trị, do đó sự chẩn bệnh đứng hàng đầu. Cũng thế, muốn diệt khổ, đạt tới Niết bàn (tức DIỆT, đứng hàng thứ 3 trong Tứ diệu đế) thì cốt nhất phải biết rõ cái KHỔ, như muốn hết bệnh thì trước tiên phải biết bệnh đó là bệnh gì. KHỔ như vậy tương ứng với giai đoạn một trong y học. Tập, nguyên nhân của khổ là giai đoạn hai. 

Đạo, con đường đưa đến diệt khổ là giai đoạn ba. Diệt (hay Niết bàn), sự hết khổ, là giai đoạn cuối cùng, mục đích tối hậu, vì mục đích này mà có ra ba giai đoạn trước, hệt như trong y học, sở dĩ phải tìm căn bệnh (1), nguyên nhân (2), cách chữa trị (3), là vì muốn phục hồi sức khỏe cho con bệnh, đạt đến tình trạng hoàn toàn không bệnh.

Như vậy trong “bốn diệu đế” có một sự nhất quán triệt để, cả bốn giai đoạn tương quan mật thiết không thể tách rời. Sự tách rời ra làm “bốn chân lý” đưa đến những sai lầm trọng đại trong việc lý giải (hiểu) và hành trì (làm) Phật pháp. Trong kinh Thắng Man, đức Phật nói rõ chỉ một đế chân thật duy nhất là Diệt đế (thứ ba trong bốn diệu đế), ba đế kia đều là giả lập, vì Diệt đế mà có ra. So sánh với y học như trên thì thấy rất rõ.

Những ngộ nhận vì tách rời “bốn chân lý” rất tai hại không thể nói xiết, trở thành bóp méo xuyên tạc Pháp Phật. Thông thường nhất là sự lên án: “Phật pháp bi quan yếm thế vì cho đời là khổ. Thì đấy: Chân lý thứ nhất là Khổ.” Những người lên án như vậy sẽ nghĩ sao khi đọc kinh Thắng Man về Nhất đế, theo đó chỉ có “chân lý thứ 3,” tức Niết bàn (an vui tuyệt đối) là thật, là cứu cánh?

Nhưng đó chỉ là ngộ nhận của người ngoại cuộc, không đáng nói làm chi. Đến như Phật tử, có người nghe nói đến Tập là nguyên nhân của khổ, vội dừng lại ở đây và kết luận: “À, thì ra mọi cái khổ mình chịu đều do tập quán từ đời trước, do cái “nghiệp” mình đã gây ra, thì chỉ còn nước rán chịu.” Vì nghĩ như vậy mà mọi sự đều đổ thừa cho nghiệp, không muốn làm gì để chuyển đổi. 

Đó là tai hại gây nên bởi sự hiểu bốn diệu đế một cách phiến diện rời rạc, trong trường hợp này người ta chỉ chú trọng đến Tập, tách rời nó ra khỏi giáo lý nhất quán của Thế Tôn, trong đó Tập được nêu lên là cốt chỉ cho ta thấy có con đường đoạn diệt Tập, nghĩa là đoạn diệt cái nhân của khổ để chấm dứt khổ.

Khi hiểu được Tập và muốn đoạn diệt nó, có người bước sang giai đoạn tu đạo (Đạo đế) nhưng lại mắc kẹt ở đây vì chấp vào Đạo đế. Khi tu hành, có người chấp vào giới luật, cho đó là cứu cánh, không còn gì hơn. Đó là trường hợp những người tu nhờ giữ gìn giới luật nên được tôn trọng cúng dường, rồi nhân đấy lấy làm tự mãn, nên không tiến lên được. 

Có khi người ấy vượt qua được sự tự mãn về giới, siêng tu thiền định, nhờ giới mà đắc định, do đắc định nên khởi tâm tự mãn: người này bị kẹt ở định, quên mất cứu cánh của mình là để thoát khổ chứ không phải để đắc định hay có thần thông. Lại có người vượt qua được sự tự mãn về định, nhờ không tự mãn nên tu thiền định được rốt ráo, rồi nhờ thiền định mà phát sinh trí tuệ: ở giai đoạn này họ cũng vẫn có thể bị kẹt không tiến đến giải thoát, khi khởi tâm cho rằng ta đây có trí, hơn người, ta biết, kẻ khác không biết. Do đó, người ấy cũng không đạt được Niết bàn. 

Như vậy, giới không phải là Niết bàn, vì nếu giới là Niết bàn tức là Niết bàn có thủ trước (chấp vào giới). Tâm thanh tịnh, đạo tri kiến, v.v... cũng thế, đều không phải Niết bàn, mà chỉ là những giai đoạn đến Niết bàn. Nói tóm, giới, định và cả tuệ nữa đều là những giai đoạn, là những phương tiện để đi đến cùng đích là Niết bàn. Cho nên không thể đắm trước bất cứ giai đoạn nào, dù là tuệ. Kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng dạy: “Tri kiến lập tri tức vô minh bổn.” Tự dưng khởi lên cái thấy biết cho rằng ta hay, ta giỏi, ta biết, đó là cội gốc vô minh.

Trên đây đều là những tệ hại phát sinh do không quán triệt lý Nhất đế trong Tứ đế, do căn bệnh trầm kha của con người là ưa chia năm chẻ bảy những gì mà họ tưởng có thể chẻ, chia, nắm bắt.

Xin lặp lại, đức Phật chỉ dạy một chân lý duy nhất là Diệt đế, sự diệt khổ, chứng Niết bàn, thành Phật, như trong Kinh Pháp Hoa Ngài đã dạy: “Ta chỉ vì một đại sự nhân duyên mà xuất hiện ra đời, đó là chỉ cho chúng sinh tri kiến Phật để ngộ nhập.” “Tri kiến Phật” đó là thấy rõ chỉ có một cái duy nhất chân thật là Niết bàn, ngoài ra đều là giả dối hư huyễn. Chứng diệt đế, Niết bàn có nghĩa là thấy rõ Khổ (phần thứ nhất của Tứ diệu đế). 

Thấy rõ đây là thấy rõ nó không thật,chỉ hiện hữu một cách huyễn hóa, giai đoạn. Vì khổ không thật có nên mới có thể đoạn trừ dễ dàng, nếu khổ là thật thì đoạn cũng uổng công vô ích mà thôi. khổ không thật có, nhưng ta vẫn thấy rõ ràng có khổ là vì sao? Tìm nguyên nhân, ta được biết cái sai lầm căn để là do ở lối nhìn của ta về thân tâm vũ trụ, một lối nhìn lệch lạc bệnh hoạn đã thành tập quán nhiều đời kiếp. 

Vậy chỉ cần sửa cái nhìn lại cho đúng, cũng như hư không vốn không có hoa đốm mà người tự thấy ra có hoa đốm là vì mắt bị bệnh. Tập đế (phần thứ hai trong Tứ diệu đế) — nguyên nhân của khổ — là nói về lối nhìn sai lạc ấy, căn để là thấy thật có cái tôi (do đó có sân), sở hữu của tôi (do đó có tham), thấy có một tự ngã tiếp tục (do đó có si, chấp chặt cái ngã không nỡ rời). 

Muốn đoạn trừ lối nhìn sai lạc ấy cần chữa cái bệnh của con mắt, theo một phương pháp của Phật dạy là Bát chánh đạo, đó là phần thứ tư trong Tứ diệu đế. Vì lối nhìn quan trọng như thế nên đứng đầu Bát chánh đạo là chánh kiến:thấy cho đúng như thật. Thấy đúng như thật thì Niết bàn chân thật được hiển lộ, Khổ, Tập tự tiêu tan, như khi mắt đã được chữa lành lặn bình thường thì bệnh mắt (Tập) hết, mắt hết bệnh thì không còn thấy hoa đốm lăng xăng (khổ) giữa hư không.

Nhưng, Niết bàn, Diệt đế không phải là kết quả của một cái gì, không phải là một mục đích nằm cuối một con đường tu đạo cam go đầy gian khổ, mặc dù thông thường ta đều có ảo tưởng như vậy, và sự trình bày Tứ diệu đế cũng cho ta cái cảm tưởng như vậy. Niết bàn vẫn ở ngay trước mắt ta, sở dĩ ta không thấy là vì mắt ta bệnh. Khi mắt ta hết bệnh thì tự nhiên thấy được hình sắc và hư không. Nhưng không thể nói hư không hình sắc ấy là mục đích, là kết quảcủa cái nhìn, vì tự bao giờ cũng như bây giờ chúng vẫn ở đấy, không vì mắt ta bệnh mà hình sắc biến mất, mắt khỏi bệnh mà hình sắc hiện lên.

Cái thấy có biến, có hiện ấy hoàn toàn là cái thấy chủ quan bệnh hoạn của con mắt, không dính gì tới hư không và hình sắc. Cũng như Niết bàn vẫn luôn luôn tại đây: dù ta có biết khổ, đoạn Tập, tu Đạo thì Niết bàn vẫn ở đó, mà ta không biết Khổ, không đoạn Tập, không tu đạo thì Niết bàn cũng vẫn ở đó không hề xê dịch biến hiện, không vì không tu mà nó bẩn đi hay vì có tu mà nó sạch thêm, như lời thâm thúy sau đây của Nam Nhạc Thiền sư, được Lục Tổ ấn chứng cho là đã ngộ nhập: “Tu chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc.” 

Tu chứng thì vẫn phải tu chứng, nhưng nhiễm ô vốn không có thật. (Điều này tối kỵ để lọt lỗ tai một kẻ ngu, cho nên các thiền sư thường chọn cách truyền đạt bằng gậy gộc và tiếng quát hơn là ngôn ngữ dễ gây ngộ nhận.)

Diệt đế, Niết bàn, nói tóm lại là chân lý duy nhất Phật muốn truyền đạt cho ta chứng nhập, nhưng khốn nỗi, không có danh từ nào để mô tả Niết bàn, nên thường thường Phật ưa dùng những từ ngữ phủ định để ám chỉ, khiến người nghe dễ hiểu lầm Niết bàn là cái gì tiêu cực, thụ động, phi thực: diệt, vô vi, vô tác, vô thủ trước v.v... 

Chúng ta ưa thắc mắc về Niết bàn, muốn biết “nó ra làm sao” trước khi khởi công tu tập, muốn biết thành Phật thì sẽ “như thế nào,” nhưng đức Thế Tôn hoàn toàn im lặng về điểm ấy. Thiên kinh vạn quyển ghi lại 49 năm thuyết pháp của Ngài đều chỉ đề cập đến vô số pháp môn nghĩa là những cái “cửa” để đi vào Pháp, vào Niết bàn, mà không Kinh nào, lời dạy nào mô tả Niết bàn là thế nào cả, bởi vì như Kinh Thắng Man dạy: “Niết bàn siêu việt mọi tư duy mô tả.” Cái đáng nói nhất, cái ta ưa nghe nhất thì khổ thay, Phật lại không thể nói cho ta được, có lẽ vì vậy mà đức Thế Tôn dạy “Trong 49 năm thuyết pháp, ta không nói lời nào.” 

Vì những gì Ngài dạy chỉ là những cái thuộc “vòng ngoài,” những phương tiện, những con đường, những pháp môn giúp ta nương theo để tự tu tự chứng. Theo đúng những đường lối của Phật đã chỉ, ta sẽ chứng được Niết bàn và khi ấy sẽ biết được “nó ra làm sao,” như ai uống nước ngọt thì chỉ riêng kẻ ấy biết mùi vị, một người chưa uống thì dù có nghe nói nước ngọt thế này hay thế nọ cũng không sao biết được, huống chi đối với Niết bàn là cái vượt ngoài tư duy mô tả?

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng năm uẩn

I. Con người là gì?

Để trả lời câu hỏi này có rất nhiều cách, tùy theo cách nhìn của người trả lời:

1. Con người là do ngũ uẩn hợp lại

2. Con người là tập hợp của lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)

3. Con người là tập hợp của tứ đại (đất, nước, gió, lửa)

4. Con người chính là do 12 nhân duyên.

5. Con người là tập hợp của các bộ máy: hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, thần kinh hệ
v.v…

6. Bài học của chúng ta hôm nay nhằm trả lời câu hỏi trên theo cách thứ nhất.

II. Ngũ uẩn là gì?

Ngũ= năm; uẩn= nhóm, kết hợp.

Ngũ uẩn là năm nhóm kết hợp với nhau tạo thành cái mà ta gọi là con người. Đó là: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn.

1. Sắc uẩn: đó chính là hình hài vật chất, là cơ thể (body). Sắc uẩn do 4 đại họp thành (đất= chất cứng như thịt, xương, răng, tóc v.v...; nước: chất lỏng như mồ hôi, nước mắt, nước bọt v.v...; gió: hơi thở vào, ra; lửa: hơi nóng, nhiệt độ của cơ thể).

2. Thọ uẩn: những cảm giác về thân và tâm, như đau, nhức, êm ái, ngứa, vui, buồn, v.v... Có 3 loại thọ uẩn: lạc thọ (cảm giác vui sướng); khổ thọ (cảm giác đau khổ); xả thọ (cảm giác không vui sướng, không khổ đau).

3. Tưởng uẩn: khả năng ghi nhận, nhớ lại những hình ảnh, âm thanh, mùi vị, cảm giác v.v... do thân và tâm đem lại. Ví dụ: nghe ---> nhớ ---> vui (giận, buồn).

4. Hành uẩn: những việc cố ý của thân, miệng và ý (ví dụ lời nói định nói mà chưa nói ra thì cũng đã thành khẩu hành rồi).

5. Thức uẩn: cái biết của 6 giác quan (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức).

Nếu mắt nhìn mà không có mặt của nhãn thức thì tuy nhìn mà không thấy gì cả. Tuy tai chăm chú nhưng không có nhĩ thức thì cũng không nghe gì cả v.v...

Sắc uẩn là phần vật chất, 4 uẩn còn lại là phần tâm lý.

Mỗi cá nhân là sự phối hợp của năm uẩn ấy.

Năm uẩn không tồn tại độc lập mà thường kết hợp với nhau. Ví dụ: thọ đi liền theo tưởng và tưởng đi liền theo thọ (nghe chê thì buồn, khi hết nghe rồi mà nhớ lại tiếng chê cũng buồn v.v…).

Năm uẩn thay đổi luôn, cái này kết hợp với cái kia, không theo thứ tự nào, hiện ra rồi biến đi tạo ra một biển cảm giác gồm những hiện tượng tâm-vật-lý sanh diệt không ngừng nghỉ. Do vậy cái TA chỉ là một tiến trình luôn biến đổi chứ không phải là một thực thể trường tồn bất biến.

III. Bài học rút ra từ ngũ uẩn:

1. Tất cả chúng sanh đều là những hình thành kết hợp từ ngũ uẩn, mọi người đều giống nhau về vật chất (thân tứ đại) với sinh, già, bệnh, chết, và tinh thần (thọ tưởng, hành, thức) với ham vui sợ khổ, tham sống sợ chết. Vậy ta phải học để thực hành từ bi và hỷ xả; thương yêu chúng sanh như người thân của mình. Không làm cho người khác những gì mình không muốn người ta làm cho mình.

2. Con người với những ngũ uẩn rất vô thường. Có đó rồi mất đó (1 hơi thở ra không vào hay vào không ra là chết). Mặc dù vậy ta không chán nản hay than khóc cho số phận ngắn ngủi của con người, mà phải tinh tấn tu học, trau dồi lòng từ bi và trí tuệ, làm lợi mình lợi người để mỗi phút giây đều sống tỉnh thức và xứng đáng là đứa con ngoan của đức Thế Tôn.

3. Đức Phật dạy: Ngũ uẩn tụ, phiền não kết. Vậy, cố gắng tách rời 5 uẩn để được an lạc. Ví dụ: nghe chê thì buồn lúc đó thôi, đừng nhớ nghĩ để rồi cứ nhớ tới và mỗi lần nhớ là mỗi lần buồn lại.

4. Cố gắng giảm bớt sự kết tụ của 5 uẩn, ví dụ:

     a. Khi vui đừng hứa (để tránh những điều khó khăn sau này khi tỉnh táo lại).

     b. Khi giận đừng nói (để đừng biến mình thành mồi lửa sân hận).

5. Cố gắng tinh tấn ngồi thiền để theo dõi hơi thở, quán xét phản ứng của thân và tâm mình trước những cảm thọ và tập làm chậm lại những phản ứng ấy.

Xem thêm:

Năm uẩn

Phật pháp ứng dụng năm uẩn

I. Con người là gì?

Để trả lời câu hỏi này có rất nhiều cách, tùy theo cách nhìn của người trả lời:

1. Con người là do ngũ uẩn hợp lại

2. Con người là tập hợp của lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)

3. Con người là tập hợp của tứ đại (đất, nước, gió, lửa)

4. Con người chính là do 12 nhân duyên.

5. Con người là tập hợp của các bộ máy: hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, thần kinh hệ
v.v…

6. Bài học của chúng ta hôm nay nhằm trả lời câu hỏi trên theo cách thứ nhất.

II. Ngũ uẩn là gì?

Ngũ= năm; uẩn= nhóm, kết hợp.

Ngũ uẩn là năm nhóm kết hợp với nhau tạo thành cái mà ta gọi là con người. Đó là: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn.

1. Sắc uẩn: đó chính là hình hài vật chất, là cơ thể (body). Sắc uẩn do 4 đại họp thành (đất= chất cứng như thịt, xương, răng, tóc v.v...; nước: chất lỏng như mồ hôi, nước mắt, nước bọt v.v...; gió: hơi thở vào, ra; lửa: hơi nóng, nhiệt độ của cơ thể).

2. Thọ uẩn: những cảm giác về thân và tâm, như đau, nhức, êm ái, ngứa, vui, buồn, v.v... Có 3 loại thọ uẩn: lạc thọ (cảm giác vui sướng); khổ thọ (cảm giác đau khổ); xả thọ (cảm giác không vui sướng, không khổ đau).

3. Tưởng uẩn: khả năng ghi nhận, nhớ lại những hình ảnh, âm thanh, mùi vị, cảm giác v.v... do thân và tâm đem lại. Ví dụ: nghe ---> nhớ ---> vui (giận, buồn).

4. Hành uẩn: những việc cố ý của thân, miệng và ý (ví dụ lời nói định nói mà chưa nói ra thì cũng đã thành khẩu hành rồi).

5. Thức uẩn: cái biết của 6 giác quan (nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức).

Nếu mắt nhìn mà không có mặt của nhãn thức thì tuy nhìn mà không thấy gì cả. Tuy tai chăm chú nhưng không có nhĩ thức thì cũng không nghe gì cả v.v...

Sắc uẩn là phần vật chất, 4 uẩn còn lại là phần tâm lý.

Mỗi cá nhân là sự phối hợp của năm uẩn ấy.

Năm uẩn không tồn tại độc lập mà thường kết hợp với nhau. Ví dụ: thọ đi liền theo tưởng và tưởng đi liền theo thọ (nghe chê thì buồn, khi hết nghe rồi mà nhớ lại tiếng chê cũng buồn v.v…).

Năm uẩn thay đổi luôn, cái này kết hợp với cái kia, không theo thứ tự nào, hiện ra rồi biến đi tạo ra một biển cảm giác gồm những hiện tượng tâm-vật-lý sanh diệt không ngừng nghỉ. Do vậy cái TA chỉ là một tiến trình luôn biến đổi chứ không phải là một thực thể trường tồn bất biến.

III. Bài học rút ra từ ngũ uẩn:

1. Tất cả chúng sanh đều là những hình thành kết hợp từ ngũ uẩn, mọi người đều giống nhau về vật chất (thân tứ đại) với sinh, già, bệnh, chết, và tinh thần (thọ tưởng, hành, thức) với ham vui sợ khổ, tham sống sợ chết. Vậy ta phải học để thực hành từ bi và hỷ xả; thương yêu chúng sanh như người thân của mình. Không làm cho người khác những gì mình không muốn người ta làm cho mình.

2. Con người với những ngũ uẩn rất vô thường. Có đó rồi mất đó (1 hơi thở ra không vào hay vào không ra là chết). Mặc dù vậy ta không chán nản hay than khóc cho số phận ngắn ngủi của con người, mà phải tinh tấn tu học, trau dồi lòng từ bi và trí tuệ, làm lợi mình lợi người để mỗi phút giây đều sống tỉnh thức và xứng đáng là đứa con ngoan của đức Thế Tôn.

3. Đức Phật dạy: Ngũ uẩn tụ, phiền não kết. Vậy, cố gắng tách rời 5 uẩn để được an lạc. Ví dụ: nghe chê thì buồn lúc đó thôi, đừng nhớ nghĩ để rồi cứ nhớ tới và mỗi lần nhớ là mỗi lần buồn lại.

4. Cố gắng giảm bớt sự kết tụ của 5 uẩn, ví dụ:

     a. Khi vui đừng hứa (để tránh những điều khó khăn sau này khi tỉnh táo lại).

     b. Khi giận đừng nói (để đừng biến mình thành mồi lửa sân hận).

5. Cố gắng tinh tấn ngồi thiền để theo dõi hơi thở, quán xét phản ứng của thân và tâm mình trước những cảm thọ và tập làm chậm lại những phản ứng ấy.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng lý luân hồi

I. Lời nói đầu:

Con người do ai sinh ra? Sanh ra rồi để làm gì và sẽ đi về đâu? Những câu hỏi này thường làm nhân loại băn khoăn, thắc mắc.

Rất nhiều tôn giáo và triết học chủ nghĩa từ trước đến nay cũng đã tìm tòi và trình bày nhiều giả thuyết khác nhau nhưng hiện tại vẫn chưa thỏa mãn được tính hiếu kỳ của nhân loại. Vấn đề nhân sinh quan vẫn còn đè nặng trong trí óc của con người. Đạo Phật dùng đạo lý Luân Hồi để trả lời những câu hỏi trên và chỉ rõ địa vị con người trong đạo Phật như thế nào.

II. Những hiểu lầm về nhân sanh:

Những hiểu lầm về nhân sanh quan bao gồm bốn thứ kiến chấp:

1. Chấp đoạn: Cho rằng con người chỉ có với hiện tại, chỉ thực sự có trong mấy mươi năm sống và khi chết là hết, những kiến thức hiểu biết không còn.

2. Chấp thường: Có người cho

rằng sau khi chết tuy thân thể tiêu tan nhưng vẫn có một linh hồn bất tử, linh hồn ấy sẽ được lên cõi thiên đàng và mãi mãi hưởng những an vui khoái lạc (nếu tạo nhân lành trong hiện tại), hay sẽ bị đọa vào cõi địa ngục chịu khổ mãi mãi (nếu tạo việc ác).

3. Chấp thân trước không can hệ đến thân sau: Có người cho rằng dầu thân này chết sanh ra thân sau, nhưng thân sau ấy không liên can gì với thân trước.

4. Chấp luân hồi theo luật tiến hóa: Có người cho rằng sự vật luân hồi theo luật tiến hóa.

III. Định Nghĩa Luân Hồi:

Luân : Bánh xe Hồi : Quay tròn

Luân Hồi là sự thăng trầm mãi mãi của chúng sanh trong sáu cõi phàm, lúc sanh ra làm người, làm trời, làm ngạ quỷ, v.v...

IV. Sự Luân Hồi của mọi vật:

Lý luân hồi là một định luật chung của tất cả sự vật.

1. Thực vật: Như cây cam, do hột cây cam gieo xuống đất, mọc thành cây cam, và sanh ra trái có hột, đem hột ấy trồng thành cây cam; mãi mãi như vậy không bao giờ dừng nghỉ.

2. Mưa: Nước biển do khí nóng mặt trời bốc hơi lên, hơi gặp khí lạnh đọng lại thành mây, rồi rơi xuống thành mưa, nước mưa chảy ra biển, và bốc hơi lên; cứ tuần hành như vậy không bao giờ mất.

3. Sức nóng: Sức nóng chứa trong cây, tìm chẳng gặp, trông chẳng thấy, nhưng lấy hai cây cọ xát vào nhau một hồi lâu lại có lửa bật cháy. Lửa ấy đốt cây tạo thành thán khí, các cây khác hút lấy thán khí để chứa lại sức nóng như trước; cứ tuần tự như vậy thì lửa trong cây không bao giờ mất.

V. Nguyên nhân của luân hồi:

Sự sanh tử luân hồi của con người do những nguyên nhân sau đây:

1. Sức mạnh của nghiệp: Con người sống ở trên đời luôn luôn tạo các nghiệp về thân, miệng, ý nghĩ.

Những nghiệp này tiếp nối nhau tạo thành những sức mạnh dắt dẵn con người sau khi chết rồi phải đầu thai để sống một kiếp khác. Sức mạnh của nghiệp đó càng ngày được tăng cường nối tiếp, nên con người luôn luôn phải sống trong sanh tử luân hồi. Có bốn loại nghiệp thường hay dẫn dắt con người đi đầu thai:

a. Tích lũy nghiệp: Nghiệp tạo ra trong nhiều đời trước.

b. Tập quán nghiệp: Nghiệp tạo ra trong đời hiện tại do những thói quen và tập quán.

c. Cực trọng nghiệp: Những nghiệp quan trọng có năng lực tác động mãnh liệt hơn hai nghiệp trước.

d. Cận tử nghiệp: Nghiệp lực tạo ra khi gần
chết.

2. Lòng tham sống sợ chết và sự luyến ái của con người: Không ai không tham sống sợ chết, nên khi lâm chung cố hết sức bám víu vào sự sống, tìm hết cách để dành lại sự sống. Vả lại tư tưởng chưa được thoải mái về những dục vọng thế gian nên khi chết lại muốn tìm một xác thân khác để thỏa mãn những ước vọng tham dục của mình.

3. Do sự mê mờ chấp trước: Không thấy rõ bản thể thực sự của chính mình. Nhận cái giả dối làm cái thật, và cho cái thật là cái giả. Vì sự nhận định sai lầm cho nên mãi mê chạy theo những cái giả dối để rồi tự làm khổ chính bản thân mình.

VI. Hành tướng luân hồi:

Lối thọ sanh tùy theo hạnh nghiệp tác động khác nhau, tùy tâm sở thích, tùy nghiệp tạo tác mà thành những năng lực dẫn dắt con người đi đầu thai. Như huân tập những chủng tử thiện thì sẽ được dẫn dắt về những cõi sung sướng. Ngược lại nếu huân tập những chủng tử bất thiện thì sẽ bị sa đọa vào những cõi như địa ngục, ngạ quỷ, hoặc bàng sanh.

VII. Sự chứng nghiệm của Luân Hồi:

1. Chính trong từng niệm, con người có thể trải qua trạng thái của sáu loài: Nếu nghĩ điều lành thì tâm đang ở trong cảnh giới thiện, khi nghĩ điều ác thì cảnh địa ngục hiện khởi.

2. Cảnh giới của sáu loài có thể lường được qua những hành động hiện tại: Trên cõi đời này, những ngục hình, những phòng tra tấn, những trại giam có những hình phạt như tra tấn, đổ nước sôi, giựt điện, chiến tranh tàn phá, v.v... thì đó chính là cái lý của cảnh giới địa ngục.

3. Thần đồng: Như nhà học gia Pascal, mới lên tám mà đã thông thạo về kỷ hà học. Bạch Cư Dị mới lên năm mà đã biết làm thơ. Những sự kiện ấy không thể gọi là ngẫu nhiên được, mà đó là sự hiểu biết của nhiều kiếp trước cho nên khi sanh ra thì đã giỏi xuất chúng.

4. Các chuyện tiền thân: Các chuyện tiền thân do Đức Phật hay các vị Bồ Tát thuật lại, một vài câu chuyện của một vài người nhớ lại kiếp trước. Điều đó cho chúng ta hiểu rằng con người đã từng sống qua nhiều trạng thái khác nhau trong lục đạo. Như ở Ấn Độ có người con gái mới lên tám mà đã biết được chồng con, gia-quyến, xứ sở của cô đời trước. 

5. Sự thông cảm giữa người và người: Có người vừa gặp lại sanh lòng yêu thương, có người vừa gặp lại sanh lòng ghét bỏ. Những hiện tượng này cho chúng ta thấy ở trong quá khứ đã từng thương ghét nhau cho nên ở đời này vừa gặp nhau liền có những thiện ác cảm mãnh liệt như vậy.

VIII. Kết luận:

Qua đạo lý luân hồi, Đức Phật dạy rằng: 

1. Nguyên nhân chính của sự đau khổ là mê mờ. Chính vì mê mờ cho nên tạo ra các nghiệp nhân để phải chịu sanh tử luân hồi.

2. Con người luân chuyển trong sáu nẻo, tùy nghiệp nhân mà thọ quả báo. Giá trị cao thấp của con người dựa vào tâm niệm hiện tại mà biết được.

3. Chính vì con người luân hồi trong lục đạo cho nên chúng sanh có thể đều là bà con họ hàng với nhau.

4. Đạo Phật nói đến Luân Hồi là giúp con người giải thoát ra ngoài sự sanh tử luân hồi.

Xem thêm:

Lý luân hồi

Phật pháp ứng dụng lý luân hồi

I. Lời nói đầu:

Con người do ai sinh ra? Sanh ra rồi để làm gì và sẽ đi về đâu? Những câu hỏi này thường làm nhân loại băn khoăn, thắc mắc.

Rất nhiều tôn giáo và triết học chủ nghĩa từ trước đến nay cũng đã tìm tòi và trình bày nhiều giả thuyết khác nhau nhưng hiện tại vẫn chưa thỏa mãn được tính hiếu kỳ của nhân loại. Vấn đề nhân sinh quan vẫn còn đè nặng trong trí óc của con người. Đạo Phật dùng đạo lý Luân Hồi để trả lời những câu hỏi trên và chỉ rõ địa vị con người trong đạo Phật như thế nào.

II. Những hiểu lầm về nhân sanh:

Những hiểu lầm về nhân sanh quan bao gồm bốn thứ kiến chấp:

1. Chấp đoạn: Cho rằng con người chỉ có với hiện tại, chỉ thực sự có trong mấy mươi năm sống và khi chết là hết, những kiến thức hiểu biết không còn.

2. Chấp thường: Có người cho

rằng sau khi chết tuy thân thể tiêu tan nhưng vẫn có một linh hồn bất tử, linh hồn ấy sẽ được lên cõi thiên đàng và mãi mãi hưởng những an vui khoái lạc (nếu tạo nhân lành trong hiện tại), hay sẽ bị đọa vào cõi địa ngục chịu khổ mãi mãi (nếu tạo việc ác).

3. Chấp thân trước không can hệ đến thân sau: Có người cho rằng dầu thân này chết sanh ra thân sau, nhưng thân sau ấy không liên can gì với thân trước.

4. Chấp luân hồi theo luật tiến hóa: Có người cho rằng sự vật luân hồi theo luật tiến hóa.

III. Định Nghĩa Luân Hồi:

Luân : Bánh xe Hồi : Quay tròn

Luân Hồi là sự thăng trầm mãi mãi của chúng sanh trong sáu cõi phàm, lúc sanh ra làm người, làm trời, làm ngạ quỷ, v.v...

IV. Sự Luân Hồi của mọi vật:

Lý luân hồi là một định luật chung của tất cả sự vật.

1. Thực vật: Như cây cam, do hột cây cam gieo xuống đất, mọc thành cây cam, và sanh ra trái có hột, đem hột ấy trồng thành cây cam; mãi mãi như vậy không bao giờ dừng nghỉ.

2. Mưa: Nước biển do khí nóng mặt trời bốc hơi lên, hơi gặp khí lạnh đọng lại thành mây, rồi rơi xuống thành mưa, nước mưa chảy ra biển, và bốc hơi lên; cứ tuần hành như vậy không bao giờ mất.

3. Sức nóng: Sức nóng chứa trong cây, tìm chẳng gặp, trông chẳng thấy, nhưng lấy hai cây cọ xát vào nhau một hồi lâu lại có lửa bật cháy. Lửa ấy đốt cây tạo thành thán khí, các cây khác hút lấy thán khí để chứa lại sức nóng như trước; cứ tuần tự như vậy thì lửa trong cây không bao giờ mất.

V. Nguyên nhân của luân hồi:

Sự sanh tử luân hồi của con người do những nguyên nhân sau đây:

1. Sức mạnh của nghiệp: Con người sống ở trên đời luôn luôn tạo các nghiệp về thân, miệng, ý nghĩ.

Những nghiệp này tiếp nối nhau tạo thành những sức mạnh dắt dẵn con người sau khi chết rồi phải đầu thai để sống một kiếp khác. Sức mạnh của nghiệp đó càng ngày được tăng cường nối tiếp, nên con người luôn luôn phải sống trong sanh tử luân hồi. Có bốn loại nghiệp thường hay dẫn dắt con người đi đầu thai:

a. Tích lũy nghiệp: Nghiệp tạo ra trong nhiều đời trước.

b. Tập quán nghiệp: Nghiệp tạo ra trong đời hiện tại do những thói quen và tập quán.

c. Cực trọng nghiệp: Những nghiệp quan trọng có năng lực tác động mãnh liệt hơn hai nghiệp trước.

d. Cận tử nghiệp: Nghiệp lực tạo ra khi gần
chết.

2. Lòng tham sống sợ chết và sự luyến ái của con người: Không ai không tham sống sợ chết, nên khi lâm chung cố hết sức bám víu vào sự sống, tìm hết cách để dành lại sự sống. Vả lại tư tưởng chưa được thoải mái về những dục vọng thế gian nên khi chết lại muốn tìm một xác thân khác để thỏa mãn những ước vọng tham dục của mình.

3. Do sự mê mờ chấp trước: Không thấy rõ bản thể thực sự của chính mình. Nhận cái giả dối làm cái thật, và cho cái thật là cái giả. Vì sự nhận định sai lầm cho nên mãi mê chạy theo những cái giả dối để rồi tự làm khổ chính bản thân mình.

VI. Hành tướng luân hồi:

Lối thọ sanh tùy theo hạnh nghiệp tác động khác nhau, tùy tâm sở thích, tùy nghiệp tạo tác mà thành những năng lực dẫn dắt con người đi đầu thai. Như huân tập những chủng tử thiện thì sẽ được dẫn dắt về những cõi sung sướng. Ngược lại nếu huân tập những chủng tử bất thiện thì sẽ bị sa đọa vào những cõi như địa ngục, ngạ quỷ, hoặc bàng sanh.

VII. Sự chứng nghiệm của Luân Hồi:

1. Chính trong từng niệm, con người có thể trải qua trạng thái của sáu loài: Nếu nghĩ điều lành thì tâm đang ở trong cảnh giới thiện, khi nghĩ điều ác thì cảnh địa ngục hiện khởi.

2. Cảnh giới của sáu loài có thể lường được qua những hành động hiện tại: Trên cõi đời này, những ngục hình, những phòng tra tấn, những trại giam có những hình phạt như tra tấn, đổ nước sôi, giựt điện, chiến tranh tàn phá, v.v... thì đó chính là cái lý của cảnh giới địa ngục.

3. Thần đồng: Như nhà học gia Pascal, mới lên tám mà đã thông thạo về kỷ hà học. Bạch Cư Dị mới lên năm mà đã biết làm thơ. Những sự kiện ấy không thể gọi là ngẫu nhiên được, mà đó là sự hiểu biết của nhiều kiếp trước cho nên khi sanh ra thì đã giỏi xuất chúng.

4. Các chuyện tiền thân: Các chuyện tiền thân do Đức Phật hay các vị Bồ Tát thuật lại, một vài câu chuyện của một vài người nhớ lại kiếp trước. Điều đó cho chúng ta hiểu rằng con người đã từng sống qua nhiều trạng thái khác nhau trong lục đạo. Như ở Ấn Độ có người con gái mới lên tám mà đã biết được chồng con, gia-quyến, xứ sở của cô đời trước. 

5. Sự thông cảm giữa người và người: Có người vừa gặp lại sanh lòng yêu thương, có người vừa gặp lại sanh lòng ghét bỏ. Những hiện tượng này cho chúng ta thấy ở trong quá khứ đã từng thương ghét nhau cho nên ở đời này vừa gặp nhau liền có những thiện ác cảm mãnh liệt như vậy.

VIII. Kết luận:

Qua đạo lý luân hồi, Đức Phật dạy rằng: 

1. Nguyên nhân chính của sự đau khổ là mê mờ. Chính vì mê mờ cho nên tạo ra các nghiệp nhân để phải chịu sanh tử luân hồi.

2. Con người luân chuyển trong sáu nẻo, tùy nghiệp nhân mà thọ quả báo. Giá trị cao thấp của con người dựa vào tâm niệm hiện tại mà biết được.

3. Chính vì con người luân hồi trong lục đạo cho nên chúng sanh có thể đều là bà con họ hàng với nhau.

4. Đạo Phật nói đến Luân Hồi là giúp con người giải thoát ra ngoài sự sanh tử luân hồi.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng rằm tháng tư phật ra đời

Quả nhiên lời đoán chẳng sai
Thế rồi hoàng hậu mang thai một ngày 
Thật vui thay! Thật mừng thay!
Hương lành theo gió dâng đầy thoảng xa, 

Theo phong tục Ấn Độ xưa
Đàn bà sinh nở thường đưa trở về 
Khai hoa nở nhụy chốn quê
Nhà cha mẹ ruột thêm bề bình yên, 

Biết ngày sinh tới gần bên
Cho nên hoàng hậu vội lên đường về 
Đi cùng một số bạn bè
Thêm người hầu hạ cận kề trước sau, 

Hoàng cung đưa tiễn hồi lâu
Đoàn về quê ngoại cùng nhau lên đường. 
Khi gần về đến quê hương
Cả đoàn được lệnh bên vườn ghé qua 

Lâm Tỳ Ni tỏa hương ra
Đón người nở nhụy khai hoa chốn này 
Trong vườn phong cảnh đẹp thay
Cây vươn nhánh xuống dang tay đỡ người 

Bà vin cành biếc mỉm cười
Hoa vô ưu nở cánh tươi đón chào 
Bà sinh thái tử lành sao
Dễ thương, kháu khỉnh, hồng hào, tinh anh. 

Địa cầu như rạng bình minh
Tràn niềm hạnh phúc, đầy tình vui tươi 
Điềm lành xuất hiện khắp nơi
Cầu vồng phô sắc, đất trời tỏa hương 

Rằm tháng Tư đẹp lạ thường
Một ngày trọng đại mở đường tương lai. 
Trong vương quốc khắp nơi nơi
Hân hoan đón nhận tin vui vô cùng 

Cả đoàn trở lại hoàng cung
Muôn chim đua hót bên đường tiễn chân 
Nhà vua cùng các quần thần
Chào mừng đón tiếp phái đoàn hồi cung 

Khắp nơi lễ hội vui chung
Chập chùng cờ phướn, tưng bừng múa ca. 
Bấy giờ khắp nước gần xa
Ngát hương an lạc, thắm hoa thanh bình 

Cho nên thái tử sơ sinh
Được vua, hoàng hậu, triều đình đặt tên 
"Tất Đạt Đa" nghĩa bình yên
"Người mang toại nguyện," "người đem tốt lành."

Xem thêm:

Rằm tháng tư Phật ra đời

Phật pháp ứng dụng rằm tháng tư phật ra đời

Quả nhiên lời đoán chẳng sai
Thế rồi hoàng hậu mang thai một ngày 
Thật vui thay! Thật mừng thay!
Hương lành theo gió dâng đầy thoảng xa, 

Theo phong tục Ấn Độ xưa
Đàn bà sinh nở thường đưa trở về 
Khai hoa nở nhụy chốn quê
Nhà cha mẹ ruột thêm bề bình yên, 

Biết ngày sinh tới gần bên
Cho nên hoàng hậu vội lên đường về 
Đi cùng một số bạn bè
Thêm người hầu hạ cận kề trước sau, 

Hoàng cung đưa tiễn hồi lâu
Đoàn về quê ngoại cùng nhau lên đường. 
Khi gần về đến quê hương
Cả đoàn được lệnh bên vườn ghé qua 

Lâm Tỳ Ni tỏa hương ra
Đón người nở nhụy khai hoa chốn này 
Trong vườn phong cảnh đẹp thay
Cây vươn nhánh xuống dang tay đỡ người 

Bà vin cành biếc mỉm cười
Hoa vô ưu nở cánh tươi đón chào 
Bà sinh thái tử lành sao
Dễ thương, kháu khỉnh, hồng hào, tinh anh. 

Địa cầu như rạng bình minh
Tràn niềm hạnh phúc, đầy tình vui tươi 
Điềm lành xuất hiện khắp nơi
Cầu vồng phô sắc, đất trời tỏa hương 

Rằm tháng Tư đẹp lạ thường
Một ngày trọng đại mở đường tương lai. 
Trong vương quốc khắp nơi nơi
Hân hoan đón nhận tin vui vô cùng 

Cả đoàn trở lại hoàng cung
Muôn chim đua hót bên đường tiễn chân 
Nhà vua cùng các quần thần
Chào mừng đón tiếp phái đoàn hồi cung 

Khắp nơi lễ hội vui chung
Chập chùng cờ phướn, tưng bừng múa ca. 
Bấy giờ khắp nước gần xa
Ngát hương an lạc, thắm hoa thanh bình 

Cho nên thái tử sơ sinh
Được vua, hoàng hậu, triều đình đặt tên 
"Tất Đạt Đa" nghĩa bình yên
"Người mang toại nguyện," "người đem tốt lành."

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng ngắn ngủi

Xuân lại về muôn lối
Trăm hoa nở bên đời
Một thoáng vui trôi mau
Lặng nhặt cánh hoa sầu

Hạ đến hoa phượng nở
Quyến rũ đẹp ngẩn ngơ
Bỗng thoáng cơn gió đùa
Phượng sầu trỗi ước mơ

Thấm thoát thu qua mau 
Để lại một nỗi sầu
Tĩnh lặng em nhìn sâu 
Từng lá thu úa màu

Đêm đông lay chợt tỉnh 
Bao năm giấc chiêm bao 
Buồn vui vô sở chấp 
Hoát nhiên vỡ mộng cười

Yên bình giữa khoảng không 
Nhận diện chốn phiêu bồng 
Đời vô thường cõi tạm
Có gì em vấn vương.

Xem thêm:

Ngắn ngủi

Phật pháp ứng dụng ngắn ngủi

Xuân lại về muôn lối
Trăm hoa nở bên đời
Một thoáng vui trôi mau
Lặng nhặt cánh hoa sầu

Hạ đến hoa phượng nở
Quyến rũ đẹp ngẩn ngơ
Bỗng thoáng cơn gió đùa
Phượng sầu trỗi ước mơ

Thấm thoát thu qua mau 
Để lại một nỗi sầu
Tĩnh lặng em nhìn sâu 
Từng lá thu úa màu

Đêm đông lay chợt tỉnh 
Bao năm giấc chiêm bao 
Buồn vui vô sở chấp 
Hoát nhiên vỡ mộng cười

Yên bình giữa khoảng không 
Nhận diện chốn phiêu bồng 
Đời vô thường cõi tạm
Có gì em vấn vương.

Xem thêm:
Đọc thêm..


Phật pháp ứng dụng tháng tư mừng phật đản sanh

Ngài đến thế gian này trong một sớm mai 
Bất động như như khứ lai
Mang ánh sáng xoá tan màn đêm tăm tối 
Bọn chúng con từ lâu lạc lối

Triền miên trong ngũ dục bốn bề 
Và bao nhiêu dụ hoặc đam mê 
Ngài chỉ ra Tứ Diệu Đế
Chân lý thực tế cuộc đời này

Con đường tám nhánh chân chánh 
Y theo sẽ đạt quả thánh nhân 
Ngài xả rồi tất cả những phù vân
Bậc giác ngộ giữa hồng trần dâu bể 

Thương chúng con mê mờ trong khổ hải 
Cửa từ bi phương tiện mở năm thừa 
Nhưng chung qui chỉ một đường giải thoát 
Ngài hiện thân ở thế gian làm thái tử

Bốn mươi chín năm là bậc đạo sư 
Suốt một đời dạy giáo pháp chơn như 
Thức tỉnh trời, người trong ba cõi
Ngày lễ đản sanh chúng con hằng mong mỏi 

Dâng hương hoa thành kính tạ Phật ân 
Nguyện vâng theo lời dạy đấng cha lành 
Trời vẫn xanh như mấy ngàn năm thuở trước 
Lúc mẹ ngài vịn nhánh Vô Ưu

Bảy bước chân chấn động ba ngàn thế giới 
Lòng trời, người phấn khởi hỷ hoan ca 
Rằm tháng tư về lại giữa sơn hà
Mừng khánh đản bậc cha của muôn loài

Xem thêm:

Tháng tư mừng Phật Đản sanh



Phật pháp ứng dụng tháng tư mừng phật đản sanh

Ngài đến thế gian này trong một sớm mai 
Bất động như như khứ lai
Mang ánh sáng xoá tan màn đêm tăm tối 
Bọn chúng con từ lâu lạc lối

Triền miên trong ngũ dục bốn bề 
Và bao nhiêu dụ hoặc đam mê 
Ngài chỉ ra Tứ Diệu Đế
Chân lý thực tế cuộc đời này

Con đường tám nhánh chân chánh 
Y theo sẽ đạt quả thánh nhân 
Ngài xả rồi tất cả những phù vân
Bậc giác ngộ giữa hồng trần dâu bể 

Thương chúng con mê mờ trong khổ hải 
Cửa từ bi phương tiện mở năm thừa 
Nhưng chung qui chỉ một đường giải thoát 
Ngài hiện thân ở thế gian làm thái tử

Bốn mươi chín năm là bậc đạo sư 
Suốt một đời dạy giáo pháp chơn như 
Thức tỉnh trời, người trong ba cõi
Ngày lễ đản sanh chúng con hằng mong mỏi 

Dâng hương hoa thành kính tạ Phật ân 
Nguyện vâng theo lời dạy đấng cha lành 
Trời vẫn xanh như mấy ngàn năm thuở trước 
Lúc mẹ ngài vịn nhánh Vô Ưu

Bảy bước chân chấn động ba ngàn thế giới 
Lòng trời, người phấn khởi hỷ hoan ca 
Rằm tháng tư về lại giữa sơn hà
Mừng khánh đản bậc cha của muôn loài

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng đêm và hoa quỳnh


Quỳnh hoa âm thầm nở
Bóng đêm hờ hững rơi
Giọt sương hay giọt lệ
Lặng lẽ trên môi cười

Hương đêm xanh lá cỏ
Chuông điểm thời công phu
Chú tiểu lơi tiếng mõ
Hoa lẻn vào kinh thư

Bát Nhã Ba La Mật
Thơm ngát quỳnh hương ơi! 
Đời vô thường, không thật 
Đêm tàn, trăng khuyết rồi.

Chú tiểu ngân nga tụng: 
“Huyễn mộng bào ảnh thôi” 
Vườn trăng, hoa quỳnh nở 
Vườn trăng, hoa quỳnh rơi

Chú tiểu còn tĩnh tọa
Trăng đã vỡ làm đôi
Chú tiểu vừa nhập định
Trăng đã thành mặt trời.

Xem thêm:

Đêm và hoa quỳnh

Phật pháp ứng dụng đêm và hoa quỳnh


Quỳnh hoa âm thầm nở
Bóng đêm hờ hững rơi
Giọt sương hay giọt lệ
Lặng lẽ trên môi cười

Hương đêm xanh lá cỏ
Chuông điểm thời công phu
Chú tiểu lơi tiếng mõ
Hoa lẻn vào kinh thư

Bát Nhã Ba La Mật
Thơm ngát quỳnh hương ơi! 
Đời vô thường, không thật 
Đêm tàn, trăng khuyết rồi.

Chú tiểu ngân nga tụng: 
“Huyễn mộng bào ảnh thôi” 
Vườn trăng, hoa quỳnh nở 
Vườn trăng, hoa quỳnh rơi

Chú tiểu còn tĩnh tọa
Trăng đã vỡ làm đôi
Chú tiểu vừa nhập định
Trăng đã thành mặt trời.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng niềm đau nhược thảo


Gót hồng nhẹ bước về ngôi,
Vẫy tay hoằng pháp, ngậm ngùi Nhân sinh...
Trăng soi Báo Quốc lung linh,
Dấu rêu còn phủ sân Thiền bóng xưa. 
Trầm khơi Hải Đức hương chùa,

Nao nao biển pháp nhớ mùa huyền ngôn. 
Quảng Hương sương nắng gieo hồn, 
Sương bay cổ lục, nắng vờn thiên thu. 
Cỏ cây thao thức dáng Từ,
Mưa đau Nhược Thảo, sa mù Nhã Hoa! 
Giá hương rèm lụa phất qua,

Đăm nhìn chiếc võng, khay trà... mà thương! 
Nhìn sâu lối sỏi Vườn Hương,
Hài rơm, gậy trúc in đường Thầy đi. 
Chim nghiêng mái Tịnh ca Bi,

Nhớ “Hoàng Hoa...” giọng ngâm thi buổi trà. 
Ôn như Mặt Nhật chiếu xa
Môn sinh Phật tử lệ nhòa Hướng Dương...
Ân Thầy đầy ắp Nguồn Thương,
Pháp ngôn, ái ngữ đẹp dường gấm châu. 
Hàng hàng giọt lệ kết châu,

Tâm nguyền trải thảm nghinh hầu Giác linh. 
Trùng trùng quang chiếu non linh
Tâm Như nhập thánh đăng trình Giá Na. 
Trầm phong kín Đọng Kim Tòa,
Non ngàn năm hạc, mây sa chập chùng...

Xem thêm:

Niềm đau nhược thảo

Phật pháp ứng dụng niềm đau nhược thảo


Gót hồng nhẹ bước về ngôi,
Vẫy tay hoằng pháp, ngậm ngùi Nhân sinh...
Trăng soi Báo Quốc lung linh,
Dấu rêu còn phủ sân Thiền bóng xưa. 
Trầm khơi Hải Đức hương chùa,

Nao nao biển pháp nhớ mùa huyền ngôn. 
Quảng Hương sương nắng gieo hồn, 
Sương bay cổ lục, nắng vờn thiên thu. 
Cỏ cây thao thức dáng Từ,
Mưa đau Nhược Thảo, sa mù Nhã Hoa! 
Giá hương rèm lụa phất qua,

Đăm nhìn chiếc võng, khay trà... mà thương! 
Nhìn sâu lối sỏi Vườn Hương,
Hài rơm, gậy trúc in đường Thầy đi. 
Chim nghiêng mái Tịnh ca Bi,

Nhớ “Hoàng Hoa...” giọng ngâm thi buổi trà. 
Ôn như Mặt Nhật chiếu xa
Môn sinh Phật tử lệ nhòa Hướng Dương...
Ân Thầy đầy ắp Nguồn Thương,
Pháp ngôn, ái ngữ đẹp dường gấm châu. 
Hàng hàng giọt lệ kết châu,

Tâm nguyền trải thảm nghinh hầu Giác linh. 
Trùng trùng quang chiếu non linh
Tâm Như nhập thánh đăng trình Giá Na. 
Trầm phong kín Đọng Kim Tòa,
Non ngàn năm hạc, mây sa chập chùng...

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng ket dong tieu su


Ấy là lúc cửa thiền đôi cánh khép,
Bóng chim nào lưu ảnh giữa trường giang? 
Trong dáng từ bi chiếc áo the vàng,
Thùy kim thủ nâng niu hồn thảo mộc...

Vòi nước tưới cây cọng rau cho cá,
Con chó lân la làm bạn, con heo vòi vĩnh đòi ăn. 
Chén trà đắc ý câu thơ,
Bên võng ngồi nghe chuyện kể.

Đêm tĩnh mịch bưng đèn thăm giấc ngủ chúng Tăng,
Chuông sớm điểm sương tan, 
một trăm lẻ tám gối già chưa mệt. 
Chăm sóc đạo tràng thiền tịnh:
hai lớp còn mường tượng âm dung.
Đốc suất làm tự điển bách khoa: 
giấy mực hai lần còn ngơ ngẩn

Ôi hạnh nguyện vô cùng, thân người có hạn, 
Bảy mươi sáu tuổi đời, năm mươi sáu tuổi đạo. 
Ngày hai tháng tư người giải thoát an nhiên, 
Biết làm sao?

Biết làm sao ngăn niềm xúc động vô biên! 
Thế giới vô thường,
không có ngã ai mà sinh diệt,
Nhưng giọt lệ nhân thiên nghẹn ngào giờ ly biệt.

Xem thêm:

Kết dòng tiểu sử

Phật pháp ứng dụng ket dong tieu su


Ấy là lúc cửa thiền đôi cánh khép,
Bóng chim nào lưu ảnh giữa trường giang? 
Trong dáng từ bi chiếc áo the vàng,
Thùy kim thủ nâng niu hồn thảo mộc...

Vòi nước tưới cây cọng rau cho cá,
Con chó lân la làm bạn, con heo vòi vĩnh đòi ăn. 
Chén trà đắc ý câu thơ,
Bên võng ngồi nghe chuyện kể.

Đêm tĩnh mịch bưng đèn thăm giấc ngủ chúng Tăng,
Chuông sớm điểm sương tan, 
một trăm lẻ tám gối già chưa mệt. 
Chăm sóc đạo tràng thiền tịnh:
hai lớp còn mường tượng âm dung.
Đốc suất làm tự điển bách khoa: 
giấy mực hai lần còn ngơ ngẩn

Ôi hạnh nguyện vô cùng, thân người có hạn, 
Bảy mươi sáu tuổi đời, năm mươi sáu tuổi đạo. 
Ngày hai tháng tư người giải thoát an nhiên, 
Biết làm sao?

Biết làm sao ngăn niềm xúc động vô biên! 
Thế giới vô thường,
không có ngã ai mà sinh diệt,
Nhưng giọt lệ nhân thiên nghẹn ngào giờ ly biệt.

Xem thêm:
Đọc thêm..

Phật pháp ứng dụng hạnh nguyện


Hơn nửa thế kỷ qua nếp sống đạo hạnh sáng ngời của Ôn đã gắn liền với sinh mệnh của Tăng Ni và tín đồ Phật tử, đặc biệt là Tăng chúng ở các Phật học viện Báo Quốc Huế, Hải Đức Nha Trang và Quảng Hương Già Lam Sài Gòn. Ôn đã yêu thương dưỡng dục chúng Tăng như cha mẹ thương yêu lo lắng cho con. Những ai may mắn được gần gũi Ôn, dù nhìn ở góc độ nào cũng nhận ra điều đó.

Hình như tuổi tác và hạ lạp của Ôn không có biên cương ngăn cách với tính tình hồn nhiên, tươi mát của chúng điệu. Cứ nhìn Ôn chơi cầu ném (boule), cờ tướng, là ta thấy rõ chân tướng từ ái hòa điệu của Ôn. Ôn thích chúng điệu luyện tập thể dục thể thao, Ôn lo cho chúng điệu từng trái cầu lông, từng quả bóng chuyền, từng chiếc mũ vải v.v... 


Ôn không sợ chúng điệu vì thế mà đánh mất oai nghi tế hạnh mà chỉ sợ chúng điệu èo uột xanh xao hay ngơ ngác chậm lụt. Mỗi khi nghe Tăng chúng khỏe mạnh hay tu học thành đạt ở cấp độ nào,gương mặt Ôn cũng hiện rõ nét vui mừng hoan hỷ. Ôn không những chăm lo yêu quí Tăng chúng mà còn xót thương che chở cho những anh em không may phải xa chùa xa bạn. Ôn sợ đàn con của Ôn bị hất hủi thăng trầm theo thế nghiệp. Tâm tư tình cảm của Ôn lúc nào cũng dành trọn cho bàng môn đệ. Một hôm Ôn tâm sự:

"Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh.

Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh,”

Đúng rồi, Chính vì tâm niệm này mà cả đời Ôn gắn liền với các Phật học viện, gắn liền với Tăng chúng, gắn liền với chiều hướng không gian thời gian. Ôn không ngại núi đồi trở ngại mà chỉ lo thiếu bóng Thánh Hiền, Ôn không quản nước sông khô cạn mà chỉ lo vắng mặt rồng thiêng. Ôi! Hạnh nguyện của Ôn là kết tinh của triệu hạt kim cương để rồi lung linh phản chiếu ra muôn màu muôn vẻ. 


Ôn đã giáo hóa chúng con không chỉ bằng bảng đen phấn trắng, bằng ngôn ngữ văn tự, bằng kinh điển truyền thừa mà bằng cả ánh mắt hiền hòa, nụ cười âu yếm, dáng đi thanh thoát, thế đứng đường đường, bằng cả những nhịp tay uyển chuyển đưa lên khi Ôn lễ Phật, bằng cả những ngữ điệu trầm hùng khi Ôn xưng tán Như Lai. Ôn đã truyền hơi ấm cho chúng con; Ôn đã tắm gội chúng con bằng hương hoa thánh thủy; Ôn đã nuôi dưỡng con bằng giọt sữa đề hồ; Ôn đã sắm sửa hành trang cho biết bao Tăng Ni Phật tử lên đường đạo hạnh. Ôn thường dạy chúng con:

“Chư Phật lưỡng túc Tôn Tri pháp thường vô tánh Phật chủng tùng duyên khởi Thị cố thuyết nhất thừa.”

Chúng con nguyện khắc cốt ghi lòng lời dạy vàng ngọc của ôn: "Phật chủng tùng duyên khởi," vâng, "Phật chủng tùng duyên khởi"!

Âm hưởng của ôn chân tình, nhân hậu, cao quý và thanh thoát quá. Văn tự biểu tượng của chúng con không đủ sức chuyên chở ý nghĩa vòi vọi của hạnh nguyện Ôn. Đành rằng biểu tượng không phải là thực thể, ngôn ngữ diễn đạt không phải là chân lý thường hằng, song xin Ôn cho phép chúng con đượcvay mượn một số những biểu tượng sai biệt của hồng trần để tỏ bày chút tình thiêng liêng bất diệt.

Kính xin Ôn xót thương hỷ xả và chứng giám cho chúng con.

Xem thêm:

Hạnh Nguyện


Phật pháp ứng dụng hạnh nguyện


Hơn nửa thế kỷ qua nếp sống đạo hạnh sáng ngời của Ôn đã gắn liền với sinh mệnh của Tăng Ni và tín đồ Phật tử, đặc biệt là Tăng chúng ở các Phật học viện Báo Quốc Huế, Hải Đức Nha Trang và Quảng Hương Già Lam Sài Gòn. Ôn đã yêu thương dưỡng dục chúng Tăng như cha mẹ thương yêu lo lắng cho con. Những ai may mắn được gần gũi Ôn, dù nhìn ở góc độ nào cũng nhận ra điều đó.

Hình như tuổi tác và hạ lạp của Ôn không có biên cương ngăn cách với tính tình hồn nhiên, tươi mát của chúng điệu. Cứ nhìn Ôn chơi cầu ném (boule), cờ tướng, là ta thấy rõ chân tướng từ ái hòa điệu của Ôn. Ôn thích chúng điệu luyện tập thể dục thể thao, Ôn lo cho chúng điệu từng trái cầu lông, từng quả bóng chuyền, từng chiếc mũ vải v.v... 


Ôn không sợ chúng điệu vì thế mà đánh mất oai nghi tế hạnh mà chỉ sợ chúng điệu èo uột xanh xao hay ngơ ngác chậm lụt. Mỗi khi nghe Tăng chúng khỏe mạnh hay tu học thành đạt ở cấp độ nào,gương mặt Ôn cũng hiện rõ nét vui mừng hoan hỷ. Ôn không những chăm lo yêu quí Tăng chúng mà còn xót thương che chở cho những anh em không may phải xa chùa xa bạn. Ôn sợ đàn con của Ôn bị hất hủi thăng trầm theo thế nghiệp. Tâm tư tình cảm của Ôn lúc nào cũng dành trọn cho bàng môn đệ. Một hôm Ôn tâm sự:

"Sơn bất tại cao, hữu tiên tắc danh.

Thủy bất tại thâm, hữu long tắc linh,”

Đúng rồi, Chính vì tâm niệm này mà cả đời Ôn gắn liền với các Phật học viện, gắn liền với Tăng chúng, gắn liền với chiều hướng không gian thời gian. Ôn không ngại núi đồi trở ngại mà chỉ lo thiếu bóng Thánh Hiền, Ôn không quản nước sông khô cạn mà chỉ lo vắng mặt rồng thiêng. Ôi! Hạnh nguyện của Ôn là kết tinh của triệu hạt kim cương để rồi lung linh phản chiếu ra muôn màu muôn vẻ. 


Ôn đã giáo hóa chúng con không chỉ bằng bảng đen phấn trắng, bằng ngôn ngữ văn tự, bằng kinh điển truyền thừa mà bằng cả ánh mắt hiền hòa, nụ cười âu yếm, dáng đi thanh thoát, thế đứng đường đường, bằng cả những nhịp tay uyển chuyển đưa lên khi Ôn lễ Phật, bằng cả những ngữ điệu trầm hùng khi Ôn xưng tán Như Lai. Ôn đã truyền hơi ấm cho chúng con; Ôn đã tắm gội chúng con bằng hương hoa thánh thủy; Ôn đã nuôi dưỡng con bằng giọt sữa đề hồ; Ôn đã sắm sửa hành trang cho biết bao Tăng Ni Phật tử lên đường đạo hạnh. Ôn thường dạy chúng con:

“Chư Phật lưỡng túc Tôn Tri pháp thường vô tánh Phật chủng tùng duyên khởi Thị cố thuyết nhất thừa.”

Chúng con nguyện khắc cốt ghi lòng lời dạy vàng ngọc của ôn: "Phật chủng tùng duyên khởi," vâng, "Phật chủng tùng duyên khởi"!

Âm hưởng của ôn chân tình, nhân hậu, cao quý và thanh thoát quá. Văn tự biểu tượng của chúng con không đủ sức chuyên chở ý nghĩa vòi vọi của hạnh nguyện Ôn. Đành rằng biểu tượng không phải là thực thể, ngôn ngữ diễn đạt không phải là chân lý thường hằng, song xin Ôn cho phép chúng con đượcvay mượn một số những biểu tượng sai biệt của hồng trần để tỏ bày chút tình thiêng liêng bất diệt.

Kính xin Ôn xót thương hỷ xả và chứng giám cho chúng con.

Xem thêm:
Đọc thêm..

Phật pháp ứng dụng về đâu


Ngơ ngác cõi phù sinh 
Hàng ngày tôi tự hỏi: 
Từ đâu tôi sinh thành 
Và về đâu phút cuối?

Từ tứ đại hợp thành 

Tôi bước vào thế giới 
Để rồi cuối hành trình 
Trở về cùng cát bụi.

Trước vô tận thời gian 

Hỏi đời sao ngắn ngủi 
Nghe như từng bước chân 
Xích lại gần mộ tối!

Tôi hướng về tôn giáo 

Mong thoát khổ luân hồi 
Nhưng Thánh Kinh không nói 
Chỉ bàn tới thiên đàng.

Bước vào cõi tình yêu 

Tôi đi tìm hạnh phúc 
Để rồi khi chung cuộc 
Khổ đau vẫn hiện hành.

Cuối cùng vào cửa Phật 

Ngộ giáo lý nhiệm mầu 
Rồi theo chân Bồ tát 
Tôi biết tôi về đâu!

Tôi về nghe kinh Phật 

Thấu hiểu thật ngọn ngành 
Vạn pháp đều duyên sanh 
Tùy duyên mà sanh khởi.

Tôi về nương Chánh Pháp 

Tu vô ngã thân tâm
Đó là đường giải thoát 

Đưa ta tới vĩnh hằng.

Xem thêm:

Về đâu


Phật pháp ứng dụng về đâu


Ngơ ngác cõi phù sinh 
Hàng ngày tôi tự hỏi: 
Từ đâu tôi sinh thành 
Và về đâu phút cuối?

Từ tứ đại hợp thành 

Tôi bước vào thế giới 
Để rồi cuối hành trình 
Trở về cùng cát bụi.

Trước vô tận thời gian 

Hỏi đời sao ngắn ngủi 
Nghe như từng bước chân 
Xích lại gần mộ tối!

Tôi hướng về tôn giáo 

Mong thoát khổ luân hồi 
Nhưng Thánh Kinh không nói 
Chỉ bàn tới thiên đàng.

Bước vào cõi tình yêu 

Tôi đi tìm hạnh phúc 
Để rồi khi chung cuộc 
Khổ đau vẫn hiện hành.

Cuối cùng vào cửa Phật 

Ngộ giáo lý nhiệm mầu 
Rồi theo chân Bồ tát 
Tôi biết tôi về đâu!

Tôi về nghe kinh Phật 

Thấu hiểu thật ngọn ngành 
Vạn pháp đều duyên sanh 
Tùy duyên mà sanh khởi.

Tôi về nương Chánh Pháp 

Tu vô ngã thân tâm
Đó là đường giải thoát 

Đưa ta tới vĩnh hằng.

Xem thêm:
Đọc thêm..

Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm, chợt tình cờ nhìn thấy.

Vì hình ảnh đó là tuyệt tác phẩm nghệ thuật.

Vì hình ảnh đó long lanh sâu thẳm tâm linh.


Vì hình ảnh đó là hài hòa tuyệt đối giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, giữa mong manh và hùng tráng.

Tự thân đã diễm lệ như thế nên không mấy thiền sư, từ nhà Như Lai bước vào đời hoằng pháp mà không ghé qua cánh cửa thơ mộng của thi ca.

Ở đó, hạc trắng vỗ cánh bay lên từng không, rơi rụng đôi vọng âm của làn sáo gió, thánh thót của hạt mưa bay, rạt rào của lớp sóng xô bờ.

Ở đó, thiền sư quán công án giữa mênh mang trầm bổng thi ca. Một lời thốt lên như hoa nở, tiếng mõ nhịp xuống như sương rơi, giòng chuông ngân dài như hồ biếc. Khi nào thiền là thơ? Khi nào thơ là thiền? Những câu như vầy, từ thi sỹ hay thiền sư:

Một con én, một đoạn đường lây lất 

Một đêm dài nghe thác đổ trên cao 
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao (*)


Làm sao để tâm thế gian hạn hẹp phân luận được, khi thi sỹ đã đạt tới tuyệt đỉnh của thơ, và thiền giả đã đạt tới không-tịch của đạo?
 

Hãy thử một đêm dài nghe thác đổ trên cao, tìm hào khí ngất trời của người xuống núi với thanh gươm Bát Nhã, rồi đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao, thắp lên tình tự cực kỳ thơ mộng của thi nhân, may ra chúng ta mới biết cám ơn hoa trái nhiệm mầu.

Đã nếm hương đạo vị diệu kỳ, ta sẽ an nhiên, dù đi giữa vô minh. Này là lời tự tình trong đêm:

Bóng ma gọi tên người mỗi sáng 

Từng ngày qua, từng tiếng vu vơ 
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng 
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ (*)

Đó, nhẹ tênh ! Tiếng ma gọi hay tiếng cai ngục điểm danh chẳng hơn gì tiếng vu vơ trời đất, vì trong mỗi chúng ta đã có sẵn một ngôi nhà Phật tráng lệ, vững vàng. Thế nên, thiền sư tĩnh tọa rồi, lại mơ màng thi sỹ:
 

Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng 

Nhưng về đâu, một chiếc lá xa mùa (*)!


Phật pháp ứng dụng lá xa mùa

             

Trời hỡi! Âm thanh và hình ảnh của “Lá xa mùa” tuyệt diệu quá!

Lá xa mùa là lá đâm chồi quá sớm hay úa tàn quá trễ?
Quá sớm cũng đã thấy đọt xanh; quá trễ cũng đã thấy nhuốm vàng, nhưng nhìn kỹ đi, chẳng phải lá ấy mùa xuân mới xanh, mùa thu mới vàng mà ngay khi lá nhuốm vàng, đã đang dành lại nhựa sống cho mầm xanh; và lá xanh vươn lên, đem hoa trái cho đời rồi lại cùng với đất, vun bón cây cao.

Có chiếc lá nào xa mùa đâu! Xanh hay vàng, lá vẫn ở cùng mùa đấy chứ vì trong sinh diệt đã sẵn mầm bất diệt.
Ấy vậy mà thi sỹ mơ màng đùa cợt để thiền sư thoáng mỉm nụ cười. Có phải nơi giòng thơ này, chúng ta đã thấy thiền sư và thi sỹ là một, nên ngôn ngữ thi ca và nguồn thiền mới hài hòa tuyệt kỷ đến thế!

Người yêu thơ chưa vơi rung cảm, người tọa thiền chưa xả phút tịnh-như, mà gió thơm đã bát ngát không gian, phả xuống tận đáy lòng, giòng tự tại Bát Nhã:

Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng 

Người mãi đi như nước chảy xa nguồn 
Bến bờ lạ, chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm.(*)


Thời Phật còn tại thế, một lần, đang tĩnh tọa trong rừng lau, Ngài bỗng nghe những tiếng chân chạy rầm rập, rồi năm, bảy thanh niên xuất hiện. Người đi đầu hỏi Phật:

-    Thưa sa môn, Ngài ngồi đây lâu chưa? Có thấy một cô gái chạy qua đây không?

Phật hỏi:
-    Chuyện gì thế?

Đám thanh niện tranh nhau nói về buổi du ngoạn mà họ tổ chức, có đem theo một vũ nữ để ca múa giúp vui, nhưng khi tiệc tan, thừa lúc họ mệt mỏi nằm nghỉ dưới gốc cây thì người vũ nữ kia đã lén lấy hết tiền bạc và bỏ trốn.


Nghe câu chuyện, Phật ôn tồn bảo:
- Thật sự lúc này các em cần tìm người vũ nữ hay cần tìm chính mình?

Đối với đám thanh niên con nhà giầu ấy, có lẽ chưa từng nghe ai hỏi câu hỏi lạ lùng vậy. Nhưng tự thể câu hỏi đầy trí tuệ đã thu hút họ ngồi xuống quanh Phật để rồi được nghe Ngài nói về giá trị của phút giây hiện tại.

Sau đó, một thanh niên đã rút ống sáo mang theo, thổi một bản nhạc để cám ơn bài pháp bất ngờ. Dứt tiếng, người thanh niên ấy nâng sáo lên, thưa Phật:

- Sa môn lắng nghe chăm chú lắm, sa môn có từng thổi sáo không?
Phật im lặng mỉm cười, nhận ống sáo. Ngước nhìn vạt nắng lung linh qua khe lá, Ngài thong thả đưa sáo lên môi và bắt đầu thổi.

Thoạt đầu chỉ là tiếng gió thoảng, rồi thông reo, rồi suối róc rách, rồi âm thanh rời rừng cây, vi vút trên đỉnh non, mênh mang qua đại dương, thong thả vuốt ve vườn thượng uyển thành Kapilavatthu năm nào, nơi công nương Yasodhara sai thị nữ đốt một đỉnh trầm hương thơm ngát và mời Thái Tử Siddhatta ngồi bên nàng, thổi sáo.

Hương trầm ngát như thế, kỳ hoa dị thảo rực rỡ như thế, nhưng tiếng sáo vẫn nhẹ nhàng bay đi, bay cao, bay xa với tiếng gọi cực kỳ mầu nhiệm của tâm linh…

Đám thanh niên rúng động khi Đức Phật buông ống sáo xuống. Họ kinh ngạc nghe Đức Phật nói rằng khi còn là Thái Tử Siddhatta, Ngài đã từng thổi sáo, nhưng hơn bẩy năm khoác áo sa môn, ống sáo đã là vật quá khứ!

Họ không thể tin rằng bẩy năm không tập dợt mà tiếng sáo còn tuyệt vời đến thế; nhưng sau khi xin thọ giới, theo tăng đoàn tu học một thời gian, họ mới hiểu rằng, ta chỉ đạt tới tuyệt đỉnh nghệ thuật khi tìm thấy chính mình.

Không còn gì hoài nghi để không tin rằng tác giả bài thơ “Mưa cao nguyên” đã tìm thấy chính mình. Cũng không phải chỉ mới bây giờ, mà như Ngài đã tìm thấy chính mình tự tiền thân, nên nhân gian đã có Thi sỹ Tuệ Sỹ; và chúng sanh có Thiền sư Thích Tuệ Sỹ.
Đa tạ! Đa tạ!

Xem thêm:

Lá xa mùa


Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm, chợt tình cờ nhìn thấy.

Vì hình ảnh đó là tuyệt tác phẩm nghệ thuật.

Vì hình ảnh đó long lanh sâu thẳm tâm linh.


Vì hình ảnh đó là hài hòa tuyệt đối giữa mộng và thực, giữa đạo và đời, giữa mong manh và hùng tráng.

Tự thân đã diễm lệ như thế nên không mấy thiền sư, từ nhà Như Lai bước vào đời hoằng pháp mà không ghé qua cánh cửa thơ mộng của thi ca.

Ở đó, hạc trắng vỗ cánh bay lên từng không, rơi rụng đôi vọng âm của làn sáo gió, thánh thót của hạt mưa bay, rạt rào của lớp sóng xô bờ.

Ở đó, thiền sư quán công án giữa mênh mang trầm bổng thi ca. Một lời thốt lên như hoa nở, tiếng mõ nhịp xuống như sương rơi, giòng chuông ngân dài như hồ biếc. Khi nào thiền là thơ? Khi nào thơ là thiền? Những câu như vầy, từ thi sỹ hay thiền sư:

Một con én, một đoạn đường lây lất 

Một đêm dài nghe thác đổ trên cao 
Ta bước vội qua dòng sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao (*)


Làm sao để tâm thế gian hạn hẹp phân luận được, khi thi sỹ đã đạt tới tuyệt đỉnh của thơ, và thiền giả đã đạt tới không-tịch của đạo?
 

Hãy thử một đêm dài nghe thác đổ trên cao, tìm hào khí ngất trời của người xuống núi với thanh gươm Bát Nhã, rồi đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao, thắp lên tình tự cực kỳ thơ mộng của thi nhân, may ra chúng ta mới biết cám ơn hoa trái nhiệm mầu.

Đã nếm hương đạo vị diệu kỳ, ta sẽ an nhiên, dù đi giữa vô minh. Này là lời tự tình trong đêm:

Bóng ma gọi tên người mỗi sáng 

Từng ngày qua, từng tiếng vu vơ 
Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng 
Trong giấc mơ lá dạt xa bờ (*)

Đó, nhẹ tênh ! Tiếng ma gọi hay tiếng cai ngục điểm danh chẳng hơn gì tiếng vu vơ trời đất, vì trong mỗi chúng ta đã có sẵn một ngôi nhà Phật tráng lệ, vững vàng. Thế nên, thiền sư tĩnh tọa rồi, lại mơ màng thi sỹ:
 

Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng 

Nhưng về đâu, một chiếc lá xa mùa (*)!


Phật pháp ứng dụng lá xa mùa

             

Trời hỡi! Âm thanh và hình ảnh của “Lá xa mùa” tuyệt diệu quá!

Lá xa mùa là lá đâm chồi quá sớm hay úa tàn quá trễ?
Quá sớm cũng đã thấy đọt xanh; quá trễ cũng đã thấy nhuốm vàng, nhưng nhìn kỹ đi, chẳng phải lá ấy mùa xuân mới xanh, mùa thu mới vàng mà ngay khi lá nhuốm vàng, đã đang dành lại nhựa sống cho mầm xanh; và lá xanh vươn lên, đem hoa trái cho đời rồi lại cùng với đất, vun bón cây cao.

Có chiếc lá nào xa mùa đâu! Xanh hay vàng, lá vẫn ở cùng mùa đấy chứ vì trong sinh diệt đã sẵn mầm bất diệt.
Ấy vậy mà thi sỹ mơ màng đùa cợt để thiền sư thoáng mỉm nụ cười. Có phải nơi giòng thơ này, chúng ta đã thấy thiền sư và thi sỹ là một, nên ngôn ngữ thi ca và nguồn thiền mới hài hòa tuyệt kỷ đến thế!

Người yêu thơ chưa vơi rung cảm, người tọa thiền chưa xả phút tịnh-như, mà gió thơm đã bát ngát không gian, phả xuống tận đáy lòng, giòng tự tại Bát Nhã:

Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng 

Người mãi đi như nước chảy xa nguồn 
Bến bờ lạ, chút tự tình với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm.(*)


Thời Phật còn tại thế, một lần, đang tĩnh tọa trong rừng lau, Ngài bỗng nghe những tiếng chân chạy rầm rập, rồi năm, bảy thanh niên xuất hiện. Người đi đầu hỏi Phật:

-    Thưa sa môn, Ngài ngồi đây lâu chưa? Có thấy một cô gái chạy qua đây không?

Phật hỏi:
-    Chuyện gì thế?

Đám thanh niện tranh nhau nói về buổi du ngoạn mà họ tổ chức, có đem theo một vũ nữ để ca múa giúp vui, nhưng khi tiệc tan, thừa lúc họ mệt mỏi nằm nghỉ dưới gốc cây thì người vũ nữ kia đã lén lấy hết tiền bạc và bỏ trốn.


Nghe câu chuyện, Phật ôn tồn bảo:
- Thật sự lúc này các em cần tìm người vũ nữ hay cần tìm chính mình?

Đối với đám thanh niên con nhà giầu ấy, có lẽ chưa từng nghe ai hỏi câu hỏi lạ lùng vậy. Nhưng tự thể câu hỏi đầy trí tuệ đã thu hút họ ngồi xuống quanh Phật để rồi được nghe Ngài nói về giá trị của phút giây hiện tại.

Sau đó, một thanh niên đã rút ống sáo mang theo, thổi một bản nhạc để cám ơn bài pháp bất ngờ. Dứt tiếng, người thanh niên ấy nâng sáo lên, thưa Phật:

- Sa môn lắng nghe chăm chú lắm, sa môn có từng thổi sáo không?
Phật im lặng mỉm cười, nhận ống sáo. Ngước nhìn vạt nắng lung linh qua khe lá, Ngài thong thả đưa sáo lên môi và bắt đầu thổi.

Thoạt đầu chỉ là tiếng gió thoảng, rồi thông reo, rồi suối róc rách, rồi âm thanh rời rừng cây, vi vút trên đỉnh non, mênh mang qua đại dương, thong thả vuốt ve vườn thượng uyển thành Kapilavatthu năm nào, nơi công nương Yasodhara sai thị nữ đốt một đỉnh trầm hương thơm ngát và mời Thái Tử Siddhatta ngồi bên nàng, thổi sáo.

Hương trầm ngát như thế, kỳ hoa dị thảo rực rỡ như thế, nhưng tiếng sáo vẫn nhẹ nhàng bay đi, bay cao, bay xa với tiếng gọi cực kỳ mầu nhiệm của tâm linh…

Đám thanh niên rúng động khi Đức Phật buông ống sáo xuống. Họ kinh ngạc nghe Đức Phật nói rằng khi còn là Thái Tử Siddhatta, Ngài đã từng thổi sáo, nhưng hơn bẩy năm khoác áo sa môn, ống sáo đã là vật quá khứ!

Họ không thể tin rằng bẩy năm không tập dợt mà tiếng sáo còn tuyệt vời đến thế; nhưng sau khi xin thọ giới, theo tăng đoàn tu học một thời gian, họ mới hiểu rằng, ta chỉ đạt tới tuyệt đỉnh nghệ thuật khi tìm thấy chính mình.

Không còn gì hoài nghi để không tin rằng tác giả bài thơ “Mưa cao nguyên” đã tìm thấy chính mình. Cũng không phải chỉ mới bây giờ, mà như Ngài đã tìm thấy chính mình tự tiền thân, nên nhân gian đã có Thi sỹ Tuệ Sỹ; và chúng sanh có Thiền sư Thích Tuệ Sỹ.
Đa tạ! Đa tạ!

Xem thêm:
Đọc thêm..
Kinh Duy-ma-cật là một trong những bộ kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Điều chúng ta dễ dàng nhận biết nhất khi đề cập đến nội dung kinh đó chính là vai trò của người cư sĩ trong việc thực hành giáo lý nhà Phật cũng như cách thức áp dụng vào đời sống hằng ngày. 

Đôi khi chúng ta nghĩ rằng Phật giáo chỉ dành riêng cho chư Tăng, Ni – những người sống đời sống xuất gia, từ bỏ thế gian, hoàn toàn tách rời với thế giới bên ngoài. Nhưng chính kinh Duy- ma-cật mang lại cho chúng ta cái nhìn mới về việc người cư sĩ nên tu tập và sống như thế nào để vừa trọn vẹn đời sống tại gia và vừa có thể có lý tưởng tu tập để đạt những quả vị cao nhất như Duy-ma-cật đã đạt.

Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần lưu ý đó chính là việc hiểu sai nghĩa bài kinh dẫn đến sự nguy hiểm trong việc thực tập. Chúng ta có thể nói rằng Phật pháp thì luôn cao siêu, tuyệt vời, làm gì có sự nguy hiểm. Nhưng thực ra nếu không hiểu đúng nghĩa và thực hành theo khả năng của bản thân thì chính việc đó sẽ ảnh hưởng đến con đường tâm linh của mình. Ví như người bắt rắn không khéo léo sẽ bị rắn quay ngược lại cắn người đó và dẫn đến những hậu quả khổ đau. 

Cũng vậy, lý tưởng Bồ-tát trong kinh Duy-ma-cật đề cập đến những cấp độ khác nhau, tuỳ theo khả năng thực hành của mỗi người và quan trọng hơn hết, ai cũng có phần lợi ích khi tìm hiểu về những lý tưởng đó như việc xây dựng cho mình cái thấy trí tuệ soi sáng cho bản thân trên con đường tu tập. Một phần nhỏ trong đó chính là lý tưởng nhập thế của những người thực tập Phật giáo.

Chúng ta thường nghĩ, “nhập thế” là từ dùng để chỉ cho những người đã ra khỏi thế tục và rồi họ quay trở lại để độ đời; có xuất thì mới có nhập; còn những người cư sĩ tại gia luôn ở trong thế tục thì cần gì gọi là nhập thế. Điều này không sai. Người cư sĩ luôn ở trong thế tục và thực hành Phật pháp với những gánh nặng về trách nhiệm của như bổn phận với cuộc đời. 

Khái niệm “nhập thế” ở đây chính là việc làm như thế nào mà người cư sĩ hoặc xuất sĩ mang Phật pháp vào cuộc đời, hướng dẫn những người xung quanh, “nhập” những tư tưởng của Phật đến những nơi thiếu thốn và trao ngọn đèn trí tuệ đến những chốn tối tăm. Đó là việc nhập thế mà chúng tôi muốn đề cập trong bài viết này. 

Bởi vì phạm vi đề cập của kinh Duy-ma-cật quá lớn, bản thân người viết không kham nổi việc chuyển tải hết tất cả thông điệp vào một bài viết nên chỉ trích vài điều dạy liên quan đến tư tưởng nhập thế và với cái biết thiển cận xin được phân tích để quý đọc giả cùng chiêm nghiệm và nghiên cứu. Từ đó chúng ta có thể có đôi chút suy nghĩ về tư tưởng nhập thế của đạo Phật và ngang qua đó mỗi người cùng nhau mang Phật giáo đến với cuộc đời.

Kinh Duy-ma-cật không mở đầu bằng việc đề cập thẳng đến cư sĩ Duy-ma-cật mà ông được nhắc đến ở phẩm thứ hai sau phẩm Phật quốc thứ nhất. Từ phẩm thứ 2 trở đi, hình ảnh Duy- ma-cật luôn xuất hiện với những lời dạy hướng dẫn chúng ta thẳng đến lý tưởng Bồ-tát. Bồ-tát có thể được dịch là “hữu tình giác” và “giác hữu tình.” Ngay chính danh xưng Bồ-tát cũng đủ nói lên tinh thần nhập thế của giáo lý nhà Phật. 

Một chúng sinh hiểu biết Phật pháp và mang những lời dạy đó đến với người khác chính là cách thiết thực nhất trong việc hoằng pháp. Đối với những vị Đại Bồ-tát, họ “tạm hoãn” việc nhập Niết-bàn để lưu lại thế gian, dùng phương tiện độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau, nhận chân giá trị an lạc. Cư sĩ Duy- ma-cật trong kinh cũng được miêu tả như vậy.
Phật pháp ứng dụng đôi nét về phật giáo nhập thể trong kinh duy ma cật

Trong phẩm Phương Tiện, ông được miêu tả là một người cư sĩ tại gia, sống trong ngũ dục nhưng không bị dục lạc chi phối, dùng mọi phương tiện thiện xảo để hoá độ chúng sinh. Kinh viết: “…Vì muốn độ người, nên ông dùng phương tiện khéo thị hiện là thân Trưởng giả ở thành Tỳ-xá-ly, có của cải nhiều vô luợng để nhiếp độ các hạng dân nghèo; giữ giới thanh tịnh để nhiếp độ các kẻ phá giới; dùng hạnh điều hòa nhẫn nhục để nhiếp độ các người giận dữ; dùng đại tinh tiến để nhiếp độ các kẻ biếng nhác; dùng nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ kẻ tâm ý tán loạn; dùng trí tuệ quyết định để nhiếp độ những kẻ vô trí; tuy làm người bạch y cư sĩ mà giữ gìn giới hạnh thanh tịnh của sa môn; tuy ở tại gia mà không đắm nhiễm ba cõi, thị hiện có vợ con, nhưng thường tu phạm hạnh; hiện có quyến thuộc, nhưng ưa sự xa lìa; dù mặc đồ quí báu, mà dùng tướng tốt để nghiêm thân; dù có uống ăn mà dùng thiền duyệt làm mùi vị…” 

Chúng ta thường khó chấp nhận một vị được xem là tu hành nhưng lại có những hành vi không phù hợp với hình ảnh của một người tu. Tuy vậy, đối với những bậc tu chứng thì những việc họ làm đều là phương tiện mang tính chất giải thoát cho những ai họ tiếp cận. Trong bản chất của hành động, họ đã không còn khởi lên một ý niệm nào liên quan đến sự sinh khởi của nghiệp. Cho nên, họ được xem là những vị bồ-tát vào đời độ sinh.

Khái niệm về bồ -tát cũng là sự nhắc nhở đối với mỗi chúng ta – người mang Phật pháp vào đời, rằng để có đủ khả năng nhập thế chúng ta cần phải rèn luyện bản thân, có đầy đủ kiến thức, cũng như sự tu tập thì bản thân mới có thể vào đời độ sinh. Điều này cũng làm chúng tôi nhớ đến việc phát khởi tâm bồ đề được Ngài Tịch Thiên đề cập trong tác phẩm trứ danh của Ngài: Nhập Bồ-tát Hạnh, đó là ‘bồ đề tâm nguyện’ và ‘bồ đề tâm hạnh.’ 

Sự khác nhau giữa hai loại phát tâm này được miêu tả như một người muốn đi và một người đang đi. Nếu chúng ta phát nguyện mang Phật pháp vào đời mà chỉ nguyện suông thì chưa đủ. Chúng ta cần bắt tay vào việc làm đó một cách thực tế và để làm được việc đó đòi hỏi khả năng của chúng ta thật vững vàng trong giáo pháp.

Đôi khi người cư sĩ Phật tử có khái niệm rằng việc hoằng pháp độ sinh là chuyện của chư Tăng, Ni. Điều này thể hiện rõ ở thái độ thụ động học và thực hành Phật pháp ở một số thành phần người cư sĩ. Chúng tôi có dịp sinh hoạt ở một vài chùa ở Colorado và nhận thấy rằng, số lượng Phật tử đến chùa hàng tuần không nhiều và việc chuyên nhất cũng không được duy trì (Tuy nhiên, có nhiều Phật tử cũng rất chuyên cần với tâm niệm học và thực hành giáo pháp) . Nhiều khi hỏi thì họ trả lời rằng “Ở đây người ta tu ‘kiểu Mỹ,’ thích thì đi không thích thì ở nhà.” 

Đa phần các chùa ở Mỹ chỉ có một ngày sinh hoạt hàng tuần là chủ nhật. Còn ở Việt Nam, các Phật tử có thể đến chùa mỗi tối để tụng kinh, nghe pháp. Tuy nhiên, việc “giao khoán” chuyện hoằng pháp cho chư Tăng, Ni thì hầu như tương đồng. Mỗi người Phật tử cần nhìn nhận lại vấn đề này và có cái nhìn rộng hơn trong vai trò của bản thân mình đối với Phật pháp. Đồng ý là người Phật tử còn bận nhiều vai trò trong xã hội, đơn giản họ chỉ cần hỗ trợ vật chất đến các tự viện để chư Tăng, Ni làm Phật sự thì xem như cũng hoàn thành phần nào việc hoằng pháp. Tuy nhiên, người Phật tử lý tưởng là người hiểu rõ Phật pháp, thực hành Phật pháp và có đủ khả năng để hướng dẫn những người sơ cơ hơn mình hiểu Phật pháp.

Đôi khi người Phật tử lại có nhiều cơ hội hoằng pháp hơn chư Tăng, Ni. Người cư sĩ Phật tử sống ở đời, tiếp xúc nhiều thành phần trong xã hội – như Duy-ma-cật, và nếu người cư sĩ hiểu giáo pháp cũng như thực hành rồi đem ra áp dụng vào từng trường hợp mà mình gặp phải, hoặc có thể hướng dẫn những người mà mình tiếp xúc trong cuộc sống thì giá trị lợi ích không thể nghĩ bàn. Có thể chúng ta hỏi tại sao gánh nặng hoằng pháp lại đặt lên vai người cư sĩ, trong khi đó là công việc chính của chư Tăng, Ni? 

Việc hoằng pháp hiển nhiên không phải là một gánh nặng. Thứ nữa, việc đó không phải là trách nhiệm của riêng ai. Mình cứ nghĩ rằng mình học giáo pháp và cảm thấy có hạnh phúc an lạc trong việc thực hành rồi mình đem những điều đó đến với người khác để giúp họ an lạc thì làm sao đó lại gọi là một gánh nặng. Đôi khi mình còn phải dùng phương tiện để giúp đỡ người khác hướng đến Phật pháp chứ đừng nói đến việc xem đó là gánh nặng. Điều này dẫn chúng ta đến một hình ảnh nữa của Duy-ma-cật đó là “hiện thân bệnh.”

Kinh mô tả rằng Duy-ma-cật là một người có tiếng tăm ở thành Tỳ-xá-ly nên khi ông bệnh hầu như tất cả thành phần trong xã hội từ vua quan, thần dân, các tu sĩ,... đều đến thăm hỏi. Chính vì muốn độ những bậc vua chúa nên ông hiện thân bệnh để họ đến thăm và nhân đó ông thuyết pháp cho họ nghe. 

Đọc vào bài kinh chúng ta sẽ thấy những lời khuyên khá thiết thực và sâu sắc mà Duy-ma-cật dành cho chúng ta khi mình rơi vào hoàn cảnh tương tự. Ví dụ như ông khuyên rằng bồ-tát bệnh là do chúng sinh có bệnh và vì lòng từ bi mà bồ-tát hiện thân bệnh, hoặc khi bồ-tát thăm hỏi bệnh của chúng sinh thì nói pháp vô thường của thân mà không khuyên chúng sinh ghét bỏ tấm thân này,... Vậy chúng ta học được gì từ những lời dạy này? Có thể trong một bài viết ngắn bản thân chúng tôi không đủ khả năng để chuyển tải hết ý nghĩa của bài kinh. Tuy vậy, qua hình ảnh thị hiện thân bệnh để thuyết pháp độ sinh chúng ta có thể thấy rằng, muốn giúp đỡ người khác đôi khi mình cần phải hiểu rõ hoàn cảnh của họ và muốn hiểu rõ cũng như muốn giúp họ thì điều quan trọng đó chính là lòng từ bi.

Có một lần tôi vô tình thấy hình ảnh người mẹ và cô con gái (cả hai là người Việt) đang nói chuyện về một người khác. Người này đi đến chùa để sinh hoạt cùng mọi người và ông ta là người Mỹ. Người mẹ hỏi người con gái “Con hỏi xem ai chở ông ấy đi và về như thế nào, nếu không có ai chở thì mình giúp đỡ ông ấy một ít tiền để đi xe bus.” 

Đây là một hành động xuất phát từ lòng từ bi và yêu thương. Chắc chắn người mẹ biết được sự khó khăn của người đàn ông đó (vì ông ta phải sử dụng gậy mới đi lại được) nên mới phát khởi lòng từ bi để giúp đỡ. Cũng vậy, chúng ta – mỗi vị bồ-tát sơ cơ, nên học hỏi hạnh của Duy-ma-cật và những người có hành động từ bi xung quanh mình để phát khởi tinh thần từ bi trong mỗi người. Được như vậy thì những việc chúng ta làm đều mang lại lợi ích cho nhiều người và thể hiện đúng tinh thần nhập thế của người Phật tử.

Thông thường chúng ta quan tâm bản thân mình nhiều hơn người khác. Điều này là lẽ hiển nhiên. Nhưng có nhiều lúc chúng ta xem những phiền não của mình là bạn thân còn những người đạo hữu của mình là kẻ thù. Điều này làm lu mờ tinh thần vị tha trong mỗi người. Vì sao lại như vậy? Lấy một ví dụ đơn giản, nóng giận là một dạng phiền não, nhưng chúng ta đôi lúc lại xem nó là bạn. Khi một vị bạn đồng tu của mình vô tình làm mình giận, mình nghĩ rằng mình giận là chuyện thường, mình ôm ấp cơn giận đó và xem người bạn tu đó là kẻ thù. Mình nghĩ cách để làm người kia đau khổ thì mình mới vơi được cơn giận. 

Vậy có phải mình đã vô tình xem giận là bạn và xem bạn là thù? Nhưng mình lại không nhận ra điều đó, mình nghĩ đó là lẽ đương nhiên và mình chấp nhận nó. Tuy vậy, chính sự nóng giận mới là kẻ thù và mình cần “tiêu diệt” nó bằng ánh sáng trí tuệ. Còn người bạn và những người xung quanh mình mới thực sự là bồ-tát giúp đỡ mình trong con đường tu tập. 

Có thể đôi lúc họ làm mình khổ nhưng hãy nghĩ rằng đó là sự thử thách mà mình gặp phải trên đường tu, nếu mình vượt qua thì mình đang tu tiến còn nếu mình thất bại thì mình phải xem lại. Chúng tôi nêu lên vấn đề này để nói rằng mỗi hành giả cần tỉnh giác với những phiền não của mình, chúng nó là những “tên giặc” ngăn cản bước đường nhập thế của chúng ta. Nhận diện  được  chúng  và  chuyển  hoá chúng là một trong những điều mà bồ -tát nhập thế cần phải làm. Được như vậy thì con đường nhập thế mới rộng mở và hanh thông.

Qua một vài hình ảnh của Duy -ma-cật, chúng ta cùng nhau nhìn lại khả năng và sự phát nguyện mang Phật pháp vào đời giúp đỡ mọi người. Việc tu tập của chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn nếu mình biết giúp đỡ người khác cùng tu và cùng hiểu Phật pháp.  

Có thể chúng  ta không bằng Duy-ma-cật nhưng chúng ta có thể  làm được một phần nào đó đơn giản hơn  để  bản thân và những  người xung quanh đều có lợi lạc từ nguồn giáo lý nhiệm mầu của đức Phật. Hoằng pháp lợi sinh không phải là trách nhiệm của một tầng lớp nào trong Phật giáo, đó là công việc và sự phát nguyện của tất cả những ai thấy rằng Phật giáo có lợi lạc cho số đông, mang an lạc cho tất cả, thì người đó phát tâm truyền bá. 

Còn khi chúng ta nghĩ đó là một gánh nặng thì không bao giờ mình đủ niềm tin kiên cố để thực hành điều đó được. Mong rằng mỗi vị bồ-tát sơ cơ như chúng ta sẽ là một cánh tay mang ánh sáng của đức Phật đến mọi góc khuất của xã hội và xoá tan đi bóng tối vô minh trong cuộc đời.

Xem thêm:

Đôi nét về phật giáo nhập thế trong kinh duy-ma-cật

Kinh Duy-ma-cật là một trong những bộ kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Điều chúng ta dễ dàng nhận biết nhất khi đề cập đến nội dung kinh đó chính là vai trò của người cư sĩ trong việc thực hành giáo lý nhà Phật cũng như cách thức áp dụng vào đời sống hằng ngày. 

Đôi khi chúng ta nghĩ rằng Phật giáo chỉ dành riêng cho chư Tăng, Ni – những người sống đời sống xuất gia, từ bỏ thế gian, hoàn toàn tách rời với thế giới bên ngoài. Nhưng chính kinh Duy- ma-cật mang lại cho chúng ta cái nhìn mới về việc người cư sĩ nên tu tập và sống như thế nào để vừa trọn vẹn đời sống tại gia và vừa có thể có lý tưởng tu tập để đạt những quả vị cao nhất như Duy-ma-cật đã đạt.

Tuy nhiên, có một điều chúng ta cần lưu ý đó chính là việc hiểu sai nghĩa bài kinh dẫn đến sự nguy hiểm trong việc thực tập. Chúng ta có thể nói rằng Phật pháp thì luôn cao siêu, tuyệt vời, làm gì có sự nguy hiểm. Nhưng thực ra nếu không hiểu đúng nghĩa và thực hành theo khả năng của bản thân thì chính việc đó sẽ ảnh hưởng đến con đường tâm linh của mình. Ví như người bắt rắn không khéo léo sẽ bị rắn quay ngược lại cắn người đó và dẫn đến những hậu quả khổ đau. 

Cũng vậy, lý tưởng Bồ-tát trong kinh Duy-ma-cật đề cập đến những cấp độ khác nhau, tuỳ theo khả năng thực hành của mỗi người và quan trọng hơn hết, ai cũng có phần lợi ích khi tìm hiểu về những lý tưởng đó như việc xây dựng cho mình cái thấy trí tuệ soi sáng cho bản thân trên con đường tu tập. Một phần nhỏ trong đó chính là lý tưởng nhập thế của những người thực tập Phật giáo.

Chúng ta thường nghĩ, “nhập thế” là từ dùng để chỉ cho những người đã ra khỏi thế tục và rồi họ quay trở lại để độ đời; có xuất thì mới có nhập; còn những người cư sĩ tại gia luôn ở trong thế tục thì cần gì gọi là nhập thế. Điều này không sai. Người cư sĩ luôn ở trong thế tục và thực hành Phật pháp với những gánh nặng về trách nhiệm của như bổn phận với cuộc đời. 

Khái niệm “nhập thế” ở đây chính là việc làm như thế nào mà người cư sĩ hoặc xuất sĩ mang Phật pháp vào cuộc đời, hướng dẫn những người xung quanh, “nhập” những tư tưởng của Phật đến những nơi thiếu thốn và trao ngọn đèn trí tuệ đến những chốn tối tăm. Đó là việc nhập thế mà chúng tôi muốn đề cập trong bài viết này. 

Bởi vì phạm vi đề cập của kinh Duy-ma-cật quá lớn, bản thân người viết không kham nổi việc chuyển tải hết tất cả thông điệp vào một bài viết nên chỉ trích vài điều dạy liên quan đến tư tưởng nhập thế và với cái biết thiển cận xin được phân tích để quý đọc giả cùng chiêm nghiệm và nghiên cứu. Từ đó chúng ta có thể có đôi chút suy nghĩ về tư tưởng nhập thế của đạo Phật và ngang qua đó mỗi người cùng nhau mang Phật giáo đến với cuộc đời.

Kinh Duy-ma-cật không mở đầu bằng việc đề cập thẳng đến cư sĩ Duy-ma-cật mà ông được nhắc đến ở phẩm thứ hai sau phẩm Phật quốc thứ nhất. Từ phẩm thứ 2 trở đi, hình ảnh Duy- ma-cật luôn xuất hiện với những lời dạy hướng dẫn chúng ta thẳng đến lý tưởng Bồ-tát. Bồ-tát có thể được dịch là “hữu tình giác” và “giác hữu tình.” Ngay chính danh xưng Bồ-tát cũng đủ nói lên tinh thần nhập thế của giáo lý nhà Phật. 

Một chúng sinh hiểu biết Phật pháp và mang những lời dạy đó đến với người khác chính là cách thiết thực nhất trong việc hoằng pháp. Đối với những vị Đại Bồ-tát, họ “tạm hoãn” việc nhập Niết-bàn để lưu lại thế gian, dùng phương tiện độ chúng sinh thoát khỏi khổ đau, nhận chân giá trị an lạc. Cư sĩ Duy- ma-cật trong kinh cũng được miêu tả như vậy.
Phật pháp ứng dụng đôi nét về phật giáo nhập thể trong kinh duy ma cật

Trong phẩm Phương Tiện, ông được miêu tả là một người cư sĩ tại gia, sống trong ngũ dục nhưng không bị dục lạc chi phối, dùng mọi phương tiện thiện xảo để hoá độ chúng sinh. Kinh viết: “…Vì muốn độ người, nên ông dùng phương tiện khéo thị hiện là thân Trưởng giả ở thành Tỳ-xá-ly, có của cải nhiều vô luợng để nhiếp độ các hạng dân nghèo; giữ giới thanh tịnh để nhiếp độ các kẻ phá giới; dùng hạnh điều hòa nhẫn nhục để nhiếp độ các người giận dữ; dùng đại tinh tiến để nhiếp độ các kẻ biếng nhác; dùng nhất tâm thiền tịch để nhiếp độ kẻ tâm ý tán loạn; dùng trí tuệ quyết định để nhiếp độ những kẻ vô trí; tuy làm người bạch y cư sĩ mà giữ gìn giới hạnh thanh tịnh của sa môn; tuy ở tại gia mà không đắm nhiễm ba cõi, thị hiện có vợ con, nhưng thường tu phạm hạnh; hiện có quyến thuộc, nhưng ưa sự xa lìa; dù mặc đồ quí báu, mà dùng tướng tốt để nghiêm thân; dù có uống ăn mà dùng thiền duyệt làm mùi vị…” 

Chúng ta thường khó chấp nhận một vị được xem là tu hành nhưng lại có những hành vi không phù hợp với hình ảnh của một người tu. Tuy vậy, đối với những bậc tu chứng thì những việc họ làm đều là phương tiện mang tính chất giải thoát cho những ai họ tiếp cận. Trong bản chất của hành động, họ đã không còn khởi lên một ý niệm nào liên quan đến sự sinh khởi của nghiệp. Cho nên, họ được xem là những vị bồ-tát vào đời độ sinh.

Khái niệm về bồ -tát cũng là sự nhắc nhở đối với mỗi chúng ta – người mang Phật pháp vào đời, rằng để có đủ khả năng nhập thế chúng ta cần phải rèn luyện bản thân, có đầy đủ kiến thức, cũng như sự tu tập thì bản thân mới có thể vào đời độ sinh. Điều này cũng làm chúng tôi nhớ đến việc phát khởi tâm bồ đề được Ngài Tịch Thiên đề cập trong tác phẩm trứ danh của Ngài: Nhập Bồ-tát Hạnh, đó là ‘bồ đề tâm nguyện’ và ‘bồ đề tâm hạnh.’ 

Sự khác nhau giữa hai loại phát tâm này được miêu tả như một người muốn đi và một người đang đi. Nếu chúng ta phát nguyện mang Phật pháp vào đời mà chỉ nguyện suông thì chưa đủ. Chúng ta cần bắt tay vào việc làm đó một cách thực tế và để làm được việc đó đòi hỏi khả năng của chúng ta thật vững vàng trong giáo pháp.

Đôi khi người cư sĩ Phật tử có khái niệm rằng việc hoằng pháp độ sinh là chuyện của chư Tăng, Ni. Điều này thể hiện rõ ở thái độ thụ động học và thực hành Phật pháp ở một số thành phần người cư sĩ. Chúng tôi có dịp sinh hoạt ở một vài chùa ở Colorado và nhận thấy rằng, số lượng Phật tử đến chùa hàng tuần không nhiều và việc chuyên nhất cũng không được duy trì (Tuy nhiên, có nhiều Phật tử cũng rất chuyên cần với tâm niệm học và thực hành giáo pháp) . Nhiều khi hỏi thì họ trả lời rằng “Ở đây người ta tu ‘kiểu Mỹ,’ thích thì đi không thích thì ở nhà.” 

Đa phần các chùa ở Mỹ chỉ có một ngày sinh hoạt hàng tuần là chủ nhật. Còn ở Việt Nam, các Phật tử có thể đến chùa mỗi tối để tụng kinh, nghe pháp. Tuy nhiên, việc “giao khoán” chuyện hoằng pháp cho chư Tăng, Ni thì hầu như tương đồng. Mỗi người Phật tử cần nhìn nhận lại vấn đề này và có cái nhìn rộng hơn trong vai trò của bản thân mình đối với Phật pháp. Đồng ý là người Phật tử còn bận nhiều vai trò trong xã hội, đơn giản họ chỉ cần hỗ trợ vật chất đến các tự viện để chư Tăng, Ni làm Phật sự thì xem như cũng hoàn thành phần nào việc hoằng pháp. Tuy nhiên, người Phật tử lý tưởng là người hiểu rõ Phật pháp, thực hành Phật pháp và có đủ khả năng để hướng dẫn những người sơ cơ hơn mình hiểu Phật pháp.

Đôi khi người Phật tử lại có nhiều cơ hội hoằng pháp hơn chư Tăng, Ni. Người cư sĩ Phật tử sống ở đời, tiếp xúc nhiều thành phần trong xã hội – như Duy-ma-cật, và nếu người cư sĩ hiểu giáo pháp cũng như thực hành rồi đem ra áp dụng vào từng trường hợp mà mình gặp phải, hoặc có thể hướng dẫn những người mà mình tiếp xúc trong cuộc sống thì giá trị lợi ích không thể nghĩ bàn. Có thể chúng ta hỏi tại sao gánh nặng hoằng pháp lại đặt lên vai người cư sĩ, trong khi đó là công việc chính của chư Tăng, Ni? 

Việc hoằng pháp hiển nhiên không phải là một gánh nặng. Thứ nữa, việc đó không phải là trách nhiệm của riêng ai. Mình cứ nghĩ rằng mình học giáo pháp và cảm thấy có hạnh phúc an lạc trong việc thực hành rồi mình đem những điều đó đến với người khác để giúp họ an lạc thì làm sao đó lại gọi là một gánh nặng. Đôi khi mình còn phải dùng phương tiện để giúp đỡ người khác hướng đến Phật pháp chứ đừng nói đến việc xem đó là gánh nặng. Điều này dẫn chúng ta đến một hình ảnh nữa của Duy-ma-cật đó là “hiện thân bệnh.”

Kinh mô tả rằng Duy-ma-cật là một người có tiếng tăm ở thành Tỳ-xá-ly nên khi ông bệnh hầu như tất cả thành phần trong xã hội từ vua quan, thần dân, các tu sĩ,... đều đến thăm hỏi. Chính vì muốn độ những bậc vua chúa nên ông hiện thân bệnh để họ đến thăm và nhân đó ông thuyết pháp cho họ nghe. 

Đọc vào bài kinh chúng ta sẽ thấy những lời khuyên khá thiết thực và sâu sắc mà Duy-ma-cật dành cho chúng ta khi mình rơi vào hoàn cảnh tương tự. Ví dụ như ông khuyên rằng bồ-tát bệnh là do chúng sinh có bệnh và vì lòng từ bi mà bồ-tát hiện thân bệnh, hoặc khi bồ-tát thăm hỏi bệnh của chúng sinh thì nói pháp vô thường của thân mà không khuyên chúng sinh ghét bỏ tấm thân này,... Vậy chúng ta học được gì từ những lời dạy này? Có thể trong một bài viết ngắn bản thân chúng tôi không đủ khả năng để chuyển tải hết ý nghĩa của bài kinh. Tuy vậy, qua hình ảnh thị hiện thân bệnh để thuyết pháp độ sinh chúng ta có thể thấy rằng, muốn giúp đỡ người khác đôi khi mình cần phải hiểu rõ hoàn cảnh của họ và muốn hiểu rõ cũng như muốn giúp họ thì điều quan trọng đó chính là lòng từ bi.

Có một lần tôi vô tình thấy hình ảnh người mẹ và cô con gái (cả hai là người Việt) đang nói chuyện về một người khác. Người này đi đến chùa để sinh hoạt cùng mọi người và ông ta là người Mỹ. Người mẹ hỏi người con gái “Con hỏi xem ai chở ông ấy đi và về như thế nào, nếu không có ai chở thì mình giúp đỡ ông ấy một ít tiền để đi xe bus.” 

Đây là một hành động xuất phát từ lòng từ bi và yêu thương. Chắc chắn người mẹ biết được sự khó khăn của người đàn ông đó (vì ông ta phải sử dụng gậy mới đi lại được) nên mới phát khởi lòng từ bi để giúp đỡ. Cũng vậy, chúng ta – mỗi vị bồ-tát sơ cơ, nên học hỏi hạnh của Duy-ma-cật và những người có hành động từ bi xung quanh mình để phát khởi tinh thần từ bi trong mỗi người. Được như vậy thì những việc chúng ta làm đều mang lại lợi ích cho nhiều người và thể hiện đúng tinh thần nhập thế của người Phật tử.

Thông thường chúng ta quan tâm bản thân mình nhiều hơn người khác. Điều này là lẽ hiển nhiên. Nhưng có nhiều lúc chúng ta xem những phiền não của mình là bạn thân còn những người đạo hữu của mình là kẻ thù. Điều này làm lu mờ tinh thần vị tha trong mỗi người. Vì sao lại như vậy? Lấy một ví dụ đơn giản, nóng giận là một dạng phiền não, nhưng chúng ta đôi lúc lại xem nó là bạn. Khi một vị bạn đồng tu của mình vô tình làm mình giận, mình nghĩ rằng mình giận là chuyện thường, mình ôm ấp cơn giận đó và xem người bạn tu đó là kẻ thù. Mình nghĩ cách để làm người kia đau khổ thì mình mới vơi được cơn giận. 

Vậy có phải mình đã vô tình xem giận là bạn và xem bạn là thù? Nhưng mình lại không nhận ra điều đó, mình nghĩ đó là lẽ đương nhiên và mình chấp nhận nó. Tuy vậy, chính sự nóng giận mới là kẻ thù và mình cần “tiêu diệt” nó bằng ánh sáng trí tuệ. Còn người bạn và những người xung quanh mình mới thực sự là bồ-tát giúp đỡ mình trong con đường tu tập. 

Có thể đôi lúc họ làm mình khổ nhưng hãy nghĩ rằng đó là sự thử thách mà mình gặp phải trên đường tu, nếu mình vượt qua thì mình đang tu tiến còn nếu mình thất bại thì mình phải xem lại. Chúng tôi nêu lên vấn đề này để nói rằng mỗi hành giả cần tỉnh giác với những phiền não của mình, chúng nó là những “tên giặc” ngăn cản bước đường nhập thế của chúng ta. Nhận diện  được  chúng  và  chuyển  hoá chúng là một trong những điều mà bồ -tát nhập thế cần phải làm. Được như vậy thì con đường nhập thế mới rộng mở và hanh thông.

Qua một vài hình ảnh của Duy -ma-cật, chúng ta cùng nhau nhìn lại khả năng và sự phát nguyện mang Phật pháp vào đời giúp đỡ mọi người. Việc tu tập của chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn nếu mình biết giúp đỡ người khác cùng tu và cùng hiểu Phật pháp.  

Có thể chúng  ta không bằng Duy-ma-cật nhưng chúng ta có thể  làm được một phần nào đó đơn giản hơn  để  bản thân và những  người xung quanh đều có lợi lạc từ nguồn giáo lý nhiệm mầu của đức Phật. Hoằng pháp lợi sinh không phải là trách nhiệm của một tầng lớp nào trong Phật giáo, đó là công việc và sự phát nguyện của tất cả những ai thấy rằng Phật giáo có lợi lạc cho số đông, mang an lạc cho tất cả, thì người đó phát tâm truyền bá. 

Còn khi chúng ta nghĩ đó là một gánh nặng thì không bao giờ mình đủ niềm tin kiên cố để thực hành điều đó được. Mong rằng mỗi vị bồ-tát sơ cơ như chúng ta sẽ là một cánh tay mang ánh sáng của đức Phật đến mọi góc khuất của xã hội và xoá tan đi bóng tối vô minh trong cuộc đời.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Phật pháp ứng dụng chuyện con chó đói

 

Thuở Ðức Phật còn tại thế, có một ông vua rất hung ác, nghe Phật đến thuyết pháp trong nước mình, liền ngự giá đến chỗ Phật ở và xin Ngài kể một câu chuyện gì đã vui lại hữu ích nữa.

Ðức Phật liền kể chuyện con “Con Chó Ðói” như sau:

“Thuở xưa, có một vị quốc vương rất bạo ngược, hà khắc với dân lành, nhân dân đều oán trách. Trời Ðế Thích thấy vậy liền hiện xuống trần dắt theo một con quỷ rất dữ. Trời Ðế Thích hóa mình thành một người thợ săn, còn con quỉ thì biến thành một con chó cao lớn.

Người thợ săn dẫn con chó vào cung của vị quốc vương để yết kiến. Bỗng con chó vùng tru lên dữ dộI, làm cho lâu đài cung điện đều rung rinh… Vị quốc vương thất kinh, liền đòi người thợ săn đến trước ngai vàng mà hỏi rằng:

“Gã kia, vì cớ gì mà con chó tru lên dữ vậy?”
Người thợ săn thưa:

“Tâu Bệ hạ, vì đói nên nó tru.”

Vị quốc vương liền ra lệnh đem cơm cho chó ăn. Nhưng một điều không ngờ là đem bao nhiêu thì con chó ăn hết bấy nhiêu, tất cả thực vật trong kho đã hết sạch mà nó vẫn chưa no, nên nó càng tru lên dữ dội hơn nữa, mà ác hại thay, mỗi lần nó tru thì cung điện đền đài của quốc vương lung lay hình như muốn sụp đổ…

Vị quốc vương không biết tính thế nào, mới hỏi người thợ săn:

“Lấy cái gì cho nó ăn để nó nín?”
Người thợ săn đáp:

“Tâu Bệ hạ, lấy thịt của người nó ghét cho nó ăn nó hết tru.”

Quốc vương hỏi: “Nó ghét kẻ nào?” Người thợ săn tâu:
“Nó ghét những kẻ bất công hãm hại dân nghèo.
Ngày nào trong nước không có dân đói khó nữa, ngày đó nó mới nín…”

Vị quốc vương liền nhớ tới những việc ác của mình làm thì hết sức hối hận, từ đó mới ăn năn chừa cải, chịu nghe những lời công bình chánh trực.”

Ðức Phật kể dứt câu chuyện này thì mặt vua tái ngắt.

Ðức Phật dịu dàng dặn với nhà vua rằng:

“Ngày nào bệ hạ nghe tiếng chó tru thì bệ hạ hãy nhớ đến câu chuyện ta kể. Bệ hạ có thể làm cho con chó nín được.”

Xem thêm:

Chuyện con chó đói

Phật pháp ứng dụng chuyện con chó đói

 

Thuở Ðức Phật còn tại thế, có một ông vua rất hung ác, nghe Phật đến thuyết pháp trong nước mình, liền ngự giá đến chỗ Phật ở và xin Ngài kể một câu chuyện gì đã vui lại hữu ích nữa.

Ðức Phật liền kể chuyện con “Con Chó Ðói” như sau:

“Thuở xưa, có một vị quốc vương rất bạo ngược, hà khắc với dân lành, nhân dân đều oán trách. Trời Ðế Thích thấy vậy liền hiện xuống trần dắt theo một con quỷ rất dữ. Trời Ðế Thích hóa mình thành một người thợ săn, còn con quỉ thì biến thành một con chó cao lớn.

Người thợ săn dẫn con chó vào cung của vị quốc vương để yết kiến. Bỗng con chó vùng tru lên dữ dộI, làm cho lâu đài cung điện đều rung rinh… Vị quốc vương thất kinh, liền đòi người thợ săn đến trước ngai vàng mà hỏi rằng:

“Gã kia, vì cớ gì mà con chó tru lên dữ vậy?”
Người thợ săn thưa:

“Tâu Bệ hạ, vì đói nên nó tru.”

Vị quốc vương liền ra lệnh đem cơm cho chó ăn. Nhưng một điều không ngờ là đem bao nhiêu thì con chó ăn hết bấy nhiêu, tất cả thực vật trong kho đã hết sạch mà nó vẫn chưa no, nên nó càng tru lên dữ dội hơn nữa, mà ác hại thay, mỗi lần nó tru thì cung điện đền đài của quốc vương lung lay hình như muốn sụp đổ…

Vị quốc vương không biết tính thế nào, mới hỏi người thợ săn:

“Lấy cái gì cho nó ăn để nó nín?”
Người thợ săn đáp:

“Tâu Bệ hạ, lấy thịt của người nó ghét cho nó ăn nó hết tru.”

Quốc vương hỏi: “Nó ghét kẻ nào?” Người thợ săn tâu:
“Nó ghét những kẻ bất công hãm hại dân nghèo.
Ngày nào trong nước không có dân đói khó nữa, ngày đó nó mới nín…”

Vị quốc vương liền nhớ tới những việc ác của mình làm thì hết sức hối hận, từ đó mới ăn năn chừa cải, chịu nghe những lời công bình chánh trực.”

Ðức Phật kể dứt câu chuyện này thì mặt vua tái ngắt.

Ðức Phật dịu dàng dặn với nhà vua rằng:

“Ngày nào bệ hạ nghe tiếng chó tru thì bệ hạ hãy nhớ đến câu chuyện ta kể. Bệ hạ có thể làm cho con chó nín được.”

Xem thêm:
Đọc thêm..
KẺ ÁC HẠI NGƯỜI HIỀN
 

Vô cớ quấy nhiễu người đã là điều quấy. Tác hại đến kẻ hiền lương lại càng quấy hơn.

Trong kinh Pháp Cú Thí Dụ có thuật lại một câu chuyện làm tỏ rõ nghĩa ấy.
“Lúc Phật còn tại thế. Ngày kia có một người thợ săn vào rừng tìm mồi cùng với đàn chó dữ. Trên đường đi anh gặp một tăng sĩ. Trong suốt buổi anh không săn được gì. Lúc trở về anh gặp vị tu sĩ ban sáng. Anh nghĩ rằng vì gặp tu sĩ nên xui xẻo. Anh tức giận xua đàn chó tấn công vị tăng, vị tăng liền trèo lên cây. Anh lấy tên bắn vào chân vị tăng. Đau quá vị tăng loay hoay trên cây làm rớt cái y phủ trên người thợ săn. Anh chàng lo gỡ cái y ra, đàn chó ngỡ là người tu sĩ rớt xuống nên bu vào cắn xé. Một lúc sau người thợ săn chết ngay tại chỗ.

Khi đàn chó kéo nhau về cả, tăng sĩ mới tụt xuống cây sửa thi hài người thợ săn nằm ngay thẳng, lấy y đắp lên trên rồi trở về tịnh xá bạch Phật đầu đuôi câu chuyện xin Phật chỉ dạy cho: Hành động như vậy có gây nên ác nghiệp không?

Phật dạy: “Kẻ nào xâm phạm người ôn hòa trong sạch vô tội, quả dữ dội trở lại kẻ cuồng dại ấy, như tung cát bụi ngược chiều gió, cát bụi sẽ bay vào mắt.”

Chỉ có hành động nhân từ hòa ái biết nhẫn nhục, chịu đựng, quả cảm, dám hy sinh vì đại nghĩa mới đem lại quả vị an lạc, tươi vui và hạnh phúc.

Xin các anh chị em hãy thận trọng trong mọi hành động tạo tác ở đời vậy.

Phật pháp ứng dụng kẻ ác hại người hiền quý lời nói phải


QUÝ LỜI NÓI PHẢI

 
Lời nói phải giúp ta biết được chân lý, dứt được mối hoài lo, thân tâm thư thái, việc giao tiếp với đời không sai lầm tai ách.

Biết giữ mình nói điều ngay phải đã khó. Biết nghe lời nói phải vâng làm làm lại là điều khó hơn. Bởi lời ngay phải thường khó nghe. “Trung ngôn nghịch nhĩ” là nghĩa ấy.

Trong sách Thi Tử (thầy của Thương Ưởng) có thuật lại câu chuyện:

“Tần Vương dùng thuyền đi chơi, các quan tả hữu theo hầu đông đủ cả, vua hỏi:

- Loan Doanh ta đã cấm cố một nơi, con ta là Loan Phường trốn chạy ra nước ngoài, có ai biết Loan Phường hiện giờ ở đâu không?

Các quan yên lặng không nói gì cả. Người lái thuyền là Thanh Quyên buông tay chèo, đứng dậy thưa rằng:

- Muôn tâu! Bệ hạ hỏi Loan Phường làm gì?

Vua nói:

- Từ khi ta đánh được họ Loan đến nay, nghe họ Loan người già chưa chết hết, người trẻ đã lớn lên. Ta lo họ phục thù, cho nên ta mới hỏi.
Thanh Quyên nói:
- Nếu nhà vua khéo sửa sang nước Tấn. Trong được lòng các quan. Ngoài được lòng trăm họ thì dù cho còn con nhà vua họ Loan mà làm được gì bệ hạ, nhưng nếu nhà vua không sửa sang chính sách nước Tấn, trong mất lòng quan, ngoài mất lòng dân, thì ngay những người ngồi trên thuyền này ai cũng là con nhà họ Loan cả.
Vua khen:
- Ngươi nói chí phải.
Sáng hôm sau vua cho đòi Thanh Quyên đến triều nội ban cho một vạn mẫu ruộng. Thanh Quyên từ không nhận, vua nói: “Một vạn mẫu ruộng ấy đổi lấy một lời nói kia, kể ra nhà ngươi còn thiệt mà quả nhân thì lợi nhiều, ngươi cứ lấy đi.”

Cương trực ngay chánh, biết dùng lời nói phải khuyên can vua, cải tổ chấn hưng đất nước, không sợ bị ghép tội khi quân chém đầu như Thanh Quyên rõ ở đời thật hiếm.

Lại biết đạt Lý mà bỏ Từ, bỏ Lễ biết nghe, biết sửa, biết hành cái đạo Quân Thương như Tấn Vương Công không phải là dễ vậy.

Xem thêm:

Kẻ ác hại người hiền - quý lời nói phải

KẺ ÁC HẠI NGƯỜI HIỀN
 

Vô cớ quấy nhiễu người đã là điều quấy. Tác hại đến kẻ hiền lương lại càng quấy hơn.

Trong kinh Pháp Cú Thí Dụ có thuật lại một câu chuyện làm tỏ rõ nghĩa ấy.
“Lúc Phật còn tại thế. Ngày kia có một người thợ săn vào rừng tìm mồi cùng với đàn chó dữ. Trên đường đi anh gặp một tăng sĩ. Trong suốt buổi anh không săn được gì. Lúc trở về anh gặp vị tu sĩ ban sáng. Anh nghĩ rằng vì gặp tu sĩ nên xui xẻo. Anh tức giận xua đàn chó tấn công vị tăng, vị tăng liền trèo lên cây. Anh lấy tên bắn vào chân vị tăng. Đau quá vị tăng loay hoay trên cây làm rớt cái y phủ trên người thợ săn. Anh chàng lo gỡ cái y ra, đàn chó ngỡ là người tu sĩ rớt xuống nên bu vào cắn xé. Một lúc sau người thợ săn chết ngay tại chỗ.

Khi đàn chó kéo nhau về cả, tăng sĩ mới tụt xuống cây sửa thi hài người thợ săn nằm ngay thẳng, lấy y đắp lên trên rồi trở về tịnh xá bạch Phật đầu đuôi câu chuyện xin Phật chỉ dạy cho: Hành động như vậy có gây nên ác nghiệp không?

Phật dạy: “Kẻ nào xâm phạm người ôn hòa trong sạch vô tội, quả dữ dội trở lại kẻ cuồng dại ấy, như tung cát bụi ngược chiều gió, cát bụi sẽ bay vào mắt.”

Chỉ có hành động nhân từ hòa ái biết nhẫn nhục, chịu đựng, quả cảm, dám hy sinh vì đại nghĩa mới đem lại quả vị an lạc, tươi vui và hạnh phúc.

Xin các anh chị em hãy thận trọng trong mọi hành động tạo tác ở đời vậy.

Phật pháp ứng dụng kẻ ác hại người hiền quý lời nói phải


QUÝ LỜI NÓI PHẢI

 
Lời nói phải giúp ta biết được chân lý, dứt được mối hoài lo, thân tâm thư thái, việc giao tiếp với đời không sai lầm tai ách.

Biết giữ mình nói điều ngay phải đã khó. Biết nghe lời nói phải vâng làm làm lại là điều khó hơn. Bởi lời ngay phải thường khó nghe. “Trung ngôn nghịch nhĩ” là nghĩa ấy.

Trong sách Thi Tử (thầy của Thương Ưởng) có thuật lại câu chuyện:

“Tần Vương dùng thuyền đi chơi, các quan tả hữu theo hầu đông đủ cả, vua hỏi:

- Loan Doanh ta đã cấm cố một nơi, con ta là Loan Phường trốn chạy ra nước ngoài, có ai biết Loan Phường hiện giờ ở đâu không?

Các quan yên lặng không nói gì cả. Người lái thuyền là Thanh Quyên buông tay chèo, đứng dậy thưa rằng:

- Muôn tâu! Bệ hạ hỏi Loan Phường làm gì?

Vua nói:

- Từ khi ta đánh được họ Loan đến nay, nghe họ Loan người già chưa chết hết, người trẻ đã lớn lên. Ta lo họ phục thù, cho nên ta mới hỏi.
Thanh Quyên nói:
- Nếu nhà vua khéo sửa sang nước Tấn. Trong được lòng các quan. Ngoài được lòng trăm họ thì dù cho còn con nhà vua họ Loan mà làm được gì bệ hạ, nhưng nếu nhà vua không sửa sang chính sách nước Tấn, trong mất lòng quan, ngoài mất lòng dân, thì ngay những người ngồi trên thuyền này ai cũng là con nhà họ Loan cả.
Vua khen:
- Ngươi nói chí phải.
Sáng hôm sau vua cho đòi Thanh Quyên đến triều nội ban cho một vạn mẫu ruộng. Thanh Quyên từ không nhận, vua nói: “Một vạn mẫu ruộng ấy đổi lấy một lời nói kia, kể ra nhà ngươi còn thiệt mà quả nhân thì lợi nhiều, ngươi cứ lấy đi.”

Cương trực ngay chánh, biết dùng lời nói phải khuyên can vua, cải tổ chấn hưng đất nước, không sợ bị ghép tội khi quân chém đầu như Thanh Quyên rõ ở đời thật hiếm.

Lại biết đạt Lý mà bỏ Từ, bỏ Lễ biết nghe, biết sửa, biết hành cái đạo Quân Thương như Tấn Vương Công không phải là dễ vậy.

Xem thêm:
Đọc thêm..
Điều khó hiểu nhất đối với tôi trong Phật giáo là sự phủ nhận bản ngã hay chối bỏ “cái tôi.” Vô ngã là một trong ba trạng thái hiển nhiên trong tất cả sự vật gồm vật chất lẫn tinh thần (vô thường, khổ và vô ngã) mà Đức Thích Ca đã dạy cho chúng ta. Thoạt đầu, cũng như mọi người lớn lên, tôi thấy "rõ ràng" mình là giao điểm chính khi nói đến bất cứ ai hay cái gì. Ví dụ như khi nói đến phương hướng, mình dùng chính bản thân của mình làm trung tâm vũ trụ. Nếu mình đứng quay mặt về hướng mặt trời mọc thì bên trái của mình là hướng bắc, bên phải là hướng nam, và sau lưng là hướng tây. Nếu mình nói đến một ai khác thì mình là trọng tâm và người kia là đối tác. Tôi không biết làm sao phủ nhận được chính mình khi suy nghĩ hay nói đến người nào hay cái gì bên ngoài tôi . Vậy sao một mặt Phật giáo chủ trương không có cái tôi, còn một mặt khác lại bảo rằng chính cái tôi nó gây ra tham, sân, si làm cho đời nhiều đau khổ? Tôi bối rối nghĩ mãi nếu cái tôi là nguyên nhân của khổ đế, và khổ đế là sự thật hiển nhiên thì cái tôi cũng phải là sự thật chứ? Vô lẽ cái không có thật lại có thể sinh ra cái có thật?



Bây giờ tôi mới hiểu rằng cái mà thường tình mình gọi là bản ngã hay cái tôi tự nó không phải là một thực thể đơn thuần, độc lập, bất di bất dịch. Trong quan điểm của Phật giáo cái tôi không phải là một thực tại mà nó chỉ là một khái niệm, một ảo ảnh; cái mà chúng ta cho là có thật chính là cái khái niệm, cái ảo ảnh này và nó là cội nguồn đau khổ của đời người. Nó giống hệt như ảo ảnh trong sa mạc. Quá thèm nước vì khát khô cổ, người lữ hành nhìn thấy hình ảnh một ốc đảo từ phương xa và cố hết sức mình đi tìm về hướng của ảo ảnh, và lẽ dĩ nhiên là không bao giờ tìm thấy để rồi phải chết khát. Chính vì biết nó là một ảo ảnh nên có người không lệ thuộc vào nó cho nên họ khiêm tốn, hay nhường nhịn, dễ tha thứ kẻ khác. Trong khi chính vì không biết nó là một ảo ảnh, có nhiều người thổi phồng nó lên, kiêu ngạo, đố kỵ, hiếu thắng, lấn lướt kẻ khác, hoặc nhiều tự ái, dễ giận dỗi, ít khi tha thứ cho mình và cho kẻ khác. Đây chính là nghĩa thật của sự hiểu biết về "vô ngã" trong Phật giáo. Ta có thể so sánh "cái tôi" như một ly cà phê sữa đá ta đang uống. Con mắt của tôi thấy rõ ràng trên bàn một ly cà phê sữa đá nhưng ly cà phê sữa đá này không phải là một thực thể đơn thuần, độc lập tự nó nảy sinh ra và không bao giờ thay đổi. Thực sự nó là một tập hợp gồm cái ly, cà phê, sữa và nước đá đang luôn luôn thay đổi theo cách của nó. Tương tự như vậy, "cái tôi" là một tập hợp từ những phản ứng của tâm đối với những nhận thức từ sáu giác quan. Mỗi người chúng ta là một cá nhân rất đặc thù nhưng mỗi cá nhân đặc thù là do cá tính chứ không phải do một thực thể có thật hoàn toàn độc lập và bất di bất dịch mà mình gọi là “cái tôi.” Cái gì lập nên cá tính? Đó là sự nhận thức và sự phản ứng của tâm (được thể hiện qua thái độ và hành vi còn gọi là nghiệp) được hình thành dựa trên ngũ uẩn rồi trở nên kinh nghiệm bản thân của đời sống hiện tại hay kiếp này và kinh nghiệm của những đời sống trong quá khứ hay kiếp trước.

Người thượng cổ tin mọi hiện tượng trong trời đất đều do thần linh tạo ra, nhất là những hiện tượng có sức mạnh vô song như bão tố, sấm sét, nước, lửa, sự chết, v.v... Vì vậy, khi nghe sấm sét họ sợ. Nhưng rồi do tiến bộ của khoa học chúng ta biết sấm sét không phải do thần thánh gây ra cho nên ngày nay ta hết sợ khi nghe giông tố. Vì không biết sự thật (vô minh) của sấm sét nên người đời xưa sống trong lo sợ khi nghe giông tố. Hiện tượng sấm sét ngày xưa vẫn còn đó nhưng nhờ vào kiến thức khoa học chúng ta có sự hiểu biết đúng đắn (chánh kiến) về sấm sét nên ngày nay không còn nhận thức sai lầm để bị sợ hãi trong tâm của chúng ta như vào thời thượng cổ. Khi nhận thức thay đổi thì thái độ và kinh nghiệm cũng thay đổi. Vì vô minh nên chúng ta không hiểu cái tôi chỉ là ảo ảnh nên mới sống với tham sân si và trầm luân không hạnh phúc.

Có người lúc chưa ăn trái sầu riêng bao giờ thì cho mùi trái cây này thật khó chịu (khổ). Do khứu giác không chấp nhận mùi sầu riêng (khổ thọ) nên tâm phản ứng khó chịu—rồi biểu hiệu bằng thái độ tiêu cực và hành vi chê bai ghét bỏ. Quá trình này được ghi lại trong trí nhớ một kinh nghiệm không tốt về sầu riêng! Ngược lại, những ai thích ăn sầu riêng thì mùi trái cây này dễ chịu hấp dẫn (lạc thọ) tạo ra thái độ tích cực vui vẻ và hành vi khen ngợi mến thích để lại cho họ một kinh nghiệm thật vui về sầu riêng! Thức ăn Việt Nam mà thiếu nước mắm thì người Việt Nam không sao thưởng thức được ngoại trừ những ai ăn chay trường. Ngược lại, người ngoại quốc không quen với khẩu vị Việt Nam sẽ rất sợ mùi nước mắm. Kinh nghiệm về ăn nước mắm của tôi và một người bạn Mỹ sẽ rất khác nhau. Hai thanh niên choàng vai nhau đi dạo phố Sài Gòn ngày xưa là chuyện thường tình trước con mắt của người Việt, nhưng những lính Mỹ mới sang Việt Nam sẽ bảo sao Việt Nam có nhiều người đồng tính đến như thế!

Những ví dụ vừa kể trên cho chúng ta thấy nhận thức của ngũ uẩn đưa đến phản ứng của tâm thể hiện qua thái độ và hành vi, và kinh nghiệm về cùng một hiện tượng bị ảnh hưởng rất nhiều của hoàn cảnh, thời gian, không gian, văn hóa, giáo dục, môi sinh của cá nhân cũng như của tập thể. Từ đó chúng ta ngộ nhận cá tính do kinh nghiệm cá nhân trong kiếp này và muôn ngàn kiếp trước tạo nên là bản ngã. Vì cá tính riêng của tôi, tôi ghét sầu riêng nhưng ưa nước mắm. Nhưng nếu tôi sinh ra và lớn lên ở miền Đồng bằng Cửu Long, chắc tôi đã yêu mến sầu riêng.

Tất cả những kinh nghiệm của cá nhân tôi tạo cho tôi một cá tính riêng biệt, và đặt căn bản trên cá tính này tôi có những nhận thức về mọi hiện tượng chung quanh tôi. Chúng ta ai cũng biết nhận thức và kinh nghiệm thay đổi theo thời gian và không gian. Và vì sự thay đổi này, cá tính của mỗi người cũng thay đổi, có lúc nhanh, có lúc chậm. Chúng ta hãy nhìn sự thay đổi của chính cá nhân chúng ta và gia đình chúng ta từ hồi còn sống ở Việt Nam cho đến bây giờ sau bao nhiêu năm cư ngụ tại Hoa Kỳ. Cá tính do kinh nghiệm tạo thành, và kinh nghiệm tạo thành nhận thức về những gì mình nghe được, thấy được, ngửi được, nếm được, sờ được, và biết được về những gì xảy ra hay đã từng hiện hữu ở chung quanh chúng ta. Nhưng những gì xảy ra hay hiện hữu ở quanh ta đều thay đổi và không độc lập một mình nó mà tất cả đều do nhiều nhân duyên khác nhau dựa vào nhau để sinh tồn cũng như hủy diệt. Do đó cá tính chỉ là một tổng hợp của nhiều thái độ trải nghiệm trong quá trình nhận thức của ngũ uẩn và phản ứng của tâm, và nó không phải là một thực thể độc lập và trường tồn. Vì tôi ngỡ cá tính là bản ngã nên trước kia tôi không hiểu được nghĩa chính xác của danh từ “vô ngã” trong Phật giáo.

Như vậy, cái tôi không phải là một thực thể độc lập. Chính sự ngộ nhận cho là nó có thật nên ai cũng xem cá nhân mình là trung tâm vũ trụ trong liên quan của mình với thế giới hiện tượng bên ngoài. Chính vì không biết và mình không thấy được sự trống rổng và vô thường của vạn vật, và vì do thói quen dùng cái tôi ảo huyền để nhận định và xét đoán mọi việc xảy ra trong tương quan giữa cá nhân mình với ngoại cảnh trong đời sống luôn luôn thay đổi mà mình cứ cho là có thật và vĩnh cửu. Khi chúng ta tìm ra sự thật là những gì mà mình nghĩ có thật thì chỉ là ảo tưởng, và những gì mình nghĩ là trường tồn thì không nằm ngoài định luật vô thường. Ngược lại vì vô minh, chúng ta không chịu chấp nhận những sự thật mà mình không thay đổi được theo ý nghĩ và ước muốn của mình nên cố lòng tranh đấu chống lại một cách vô vọng. Vì cái tôi không có thật mà mình lầm tưởng là có thật, và vì mọi pháp đều vô thường mà minh lầm tưởng là vĩnh cửu nên mình mới thất vọng và đau khổ. Vô minh chính là gốc rễ của mọi ưu phiền!

Khi chúng ta hiểu được lời Phật dạy rằng cái tôi là ảo tưởng, chúng ta mới có thể không còn dùng nó làm căn bản cho tất cả tư tưởng, lời nói và hành động của mình. Cái tôi luôn luôn là những nguyên nhân chính gây ra đau khổ làm mất hạnh phúc cho mình và tha nhân. Vì cái tôi, chúng ta mới sinh lòng tham, giữ lại cho mình thật nhiều, muốn nhiều thứ thuộc về tôi và trở thành "của tôi." Vì tham mình chẳng bao giờ thấy đủ cho nên lúc nào mình cũng không vui vì thấy mình còn thiếu thốn quá! Vì ở Việt Nam có bao người thiếu công ăn việc làm, con cái thiếu học, gia đình thiếu thuốc thang khi đau ốm, mọi người thiếu tự do nên bà con chúng ta muốn di dân sang Mỹ. Khi qua sống ở Mỹ, trừ tự do, nhiều người vẫn thấy không đủ, và có thể cảm thấy thiếu hạnh phúc hơn xưa khi nhìn quanh thấy toàn giàu sang phú quí! Vì tham nên mình ôm giữ, quí mến, bám víu rồi trở thành lệ thuộc, và rất sợ mất vì vậy nên có sân, si . Khi của tôi bị mất thì tôi tiếc thương, nhung nhớ, buồn tủi, tuyệt vọng, lắm lúc nổi khùng điên; khi bị mất vì cưỡng bách, chiếm đoạt hay trộm cướp thì đâm ra tức giận, thù ghét và sinh tâm ác muốn trả thù. Mình có thể không cầu lợi, không mê giàu sang phú quí nhưng mình còn ham danh. Ai ca tụng thì mình ưa mến muốn gần gũi họ; ai nói xấu thì mình không bao giờ muốn thấy mặt và trở thành thù nghịch.


Theo Phật giáo, tham, sân, si là cội nguồn của bất bình, thiếu hạnh phúc, đau khổ; và cội nguồn của đau khổ là cái tôi hư ảo vô thuờng và lòng tham phát sinh từ đó. Vì thế, những người xem trọng cái tôi thường ngạo mạn, tự cao tự đại, hay chê bai kẻ khác gây ra thù ghét, có nhiều kẻ thù hơn bè bạn. Họ ít khi cảm thấy vui trong lòng và tìm được hạnh phúc thực sự. Hạnh phúc chỉ đến với họ trong những lúc họ hơn, họ thắng trong tranh đua hằng ngày, hay trong những lúc họ tự cho mình hơn kẻ khác, và cho rằng những ai không đồng ý với quan điểm tự đánh giá của họ đều là ngu dốt. Trong lúc đó những  người  khiêm nhường  ít  khi  phê phán chê bai, phản ảnh tinh thần từ bi có nhiều bạn ít thù và lòng họ bình thản thảnh thơi hơn (tâm xả). Thường thường chúng ta nghĩ rằng tính tự kiêu (có cái tôi lớn) hay khiêm nhường (không xem cái tôi quá quan trọng) là bẩm sinh. Như tôi trình bày ở trên, bản tính "trời sinh" này chỉ là kết quả hỗn hợp nhào nặn ra của bao nhiêu kinh nghiệm trong kiếp này và bao nhiêu kiếp trước. Nó không phải là một thực thể tự nó sinh ra, tự nó tồn tại và mãi mãi không thay đổi. Sự thật  này  đem  may  mắn  cho  chúng  ta  vì mình có thể tu sửa để thay đổi bản tính của mình và không còn lệ thuộc vào ảo tưởng về bản  ngã  để  tìm  thấy  hạnh  phúc  thật  sự trong đời sống này như lời dạy của Đức Thế Tôn.

Xem thêm:

“Cái Tôi” là gì

Điều khó hiểu nhất đối với tôi trong Phật giáo là sự phủ nhận bản ngã hay chối bỏ “cái tôi.” Vô ngã là một trong ba trạng thái hiển nhiên trong tất cả sự vật gồm vật chất lẫn tinh thần (vô thường, khổ và vô ngã) mà Đức Thích Ca đã dạy cho chúng ta. Thoạt đầu, cũng như mọi người lớn lên, tôi thấy "rõ ràng" mình là giao điểm chính khi nói đến bất cứ ai hay cái gì. Ví dụ như khi nói đến phương hướng, mình dùng chính bản thân của mình làm trung tâm vũ trụ. Nếu mình đứng quay mặt về hướng mặt trời mọc thì bên trái của mình là hướng bắc, bên phải là hướng nam, và sau lưng là hướng tây. Nếu mình nói đến một ai khác thì mình là trọng tâm và người kia là đối tác. Tôi không biết làm sao phủ nhận được chính mình khi suy nghĩ hay nói đến người nào hay cái gì bên ngoài tôi . Vậy sao một mặt Phật giáo chủ trương không có cái tôi, còn một mặt khác lại bảo rằng chính cái tôi nó gây ra tham, sân, si làm cho đời nhiều đau khổ? Tôi bối rối nghĩ mãi nếu cái tôi là nguyên nhân của khổ đế, và khổ đế là sự thật hiển nhiên thì cái tôi cũng phải là sự thật chứ? Vô lẽ cái không có thật lại có thể sinh ra cái có thật?



Bây giờ tôi mới hiểu rằng cái mà thường tình mình gọi là bản ngã hay cái tôi tự nó không phải là một thực thể đơn thuần, độc lập, bất di bất dịch. Trong quan điểm của Phật giáo cái tôi không phải là một thực tại mà nó chỉ là một khái niệm, một ảo ảnh; cái mà chúng ta cho là có thật chính là cái khái niệm, cái ảo ảnh này và nó là cội nguồn đau khổ của đời người. Nó giống hệt như ảo ảnh trong sa mạc. Quá thèm nước vì khát khô cổ, người lữ hành nhìn thấy hình ảnh một ốc đảo từ phương xa và cố hết sức mình đi tìm về hướng của ảo ảnh, và lẽ dĩ nhiên là không bao giờ tìm thấy để rồi phải chết khát. Chính vì biết nó là một ảo ảnh nên có người không lệ thuộc vào nó cho nên họ khiêm tốn, hay nhường nhịn, dễ tha thứ kẻ khác. Trong khi chính vì không biết nó là một ảo ảnh, có nhiều người thổi phồng nó lên, kiêu ngạo, đố kỵ, hiếu thắng, lấn lướt kẻ khác, hoặc nhiều tự ái, dễ giận dỗi, ít khi tha thứ cho mình và cho kẻ khác. Đây chính là nghĩa thật của sự hiểu biết về "vô ngã" trong Phật giáo. Ta có thể so sánh "cái tôi" như một ly cà phê sữa đá ta đang uống. Con mắt của tôi thấy rõ ràng trên bàn một ly cà phê sữa đá nhưng ly cà phê sữa đá này không phải là một thực thể đơn thuần, độc lập tự nó nảy sinh ra và không bao giờ thay đổi. Thực sự nó là một tập hợp gồm cái ly, cà phê, sữa và nước đá đang luôn luôn thay đổi theo cách của nó. Tương tự như vậy, "cái tôi" là một tập hợp từ những phản ứng của tâm đối với những nhận thức từ sáu giác quan. Mỗi người chúng ta là một cá nhân rất đặc thù nhưng mỗi cá nhân đặc thù là do cá tính chứ không phải do một thực thể có thật hoàn toàn độc lập và bất di bất dịch mà mình gọi là “cái tôi.” Cái gì lập nên cá tính? Đó là sự nhận thức và sự phản ứng của tâm (được thể hiện qua thái độ và hành vi còn gọi là nghiệp) được hình thành dựa trên ngũ uẩn rồi trở nên kinh nghiệm bản thân của đời sống hiện tại hay kiếp này và kinh nghiệm của những đời sống trong quá khứ hay kiếp trước.

Người thượng cổ tin mọi hiện tượng trong trời đất đều do thần linh tạo ra, nhất là những hiện tượng có sức mạnh vô song như bão tố, sấm sét, nước, lửa, sự chết, v.v... Vì vậy, khi nghe sấm sét họ sợ. Nhưng rồi do tiến bộ của khoa học chúng ta biết sấm sét không phải do thần thánh gây ra cho nên ngày nay ta hết sợ khi nghe giông tố. Vì không biết sự thật (vô minh) của sấm sét nên người đời xưa sống trong lo sợ khi nghe giông tố. Hiện tượng sấm sét ngày xưa vẫn còn đó nhưng nhờ vào kiến thức khoa học chúng ta có sự hiểu biết đúng đắn (chánh kiến) về sấm sét nên ngày nay không còn nhận thức sai lầm để bị sợ hãi trong tâm của chúng ta như vào thời thượng cổ. Khi nhận thức thay đổi thì thái độ và kinh nghiệm cũng thay đổi. Vì vô minh nên chúng ta không hiểu cái tôi chỉ là ảo ảnh nên mới sống với tham sân si và trầm luân không hạnh phúc.

Có người lúc chưa ăn trái sầu riêng bao giờ thì cho mùi trái cây này thật khó chịu (khổ). Do khứu giác không chấp nhận mùi sầu riêng (khổ thọ) nên tâm phản ứng khó chịu—rồi biểu hiệu bằng thái độ tiêu cực và hành vi chê bai ghét bỏ. Quá trình này được ghi lại trong trí nhớ một kinh nghiệm không tốt về sầu riêng! Ngược lại, những ai thích ăn sầu riêng thì mùi trái cây này dễ chịu hấp dẫn (lạc thọ) tạo ra thái độ tích cực vui vẻ và hành vi khen ngợi mến thích để lại cho họ một kinh nghiệm thật vui về sầu riêng! Thức ăn Việt Nam mà thiếu nước mắm thì người Việt Nam không sao thưởng thức được ngoại trừ những ai ăn chay trường. Ngược lại, người ngoại quốc không quen với khẩu vị Việt Nam sẽ rất sợ mùi nước mắm. Kinh nghiệm về ăn nước mắm của tôi và một người bạn Mỹ sẽ rất khác nhau. Hai thanh niên choàng vai nhau đi dạo phố Sài Gòn ngày xưa là chuyện thường tình trước con mắt của người Việt, nhưng những lính Mỹ mới sang Việt Nam sẽ bảo sao Việt Nam có nhiều người đồng tính đến như thế!

Những ví dụ vừa kể trên cho chúng ta thấy nhận thức của ngũ uẩn đưa đến phản ứng của tâm thể hiện qua thái độ và hành vi, và kinh nghiệm về cùng một hiện tượng bị ảnh hưởng rất nhiều của hoàn cảnh, thời gian, không gian, văn hóa, giáo dục, môi sinh của cá nhân cũng như của tập thể. Từ đó chúng ta ngộ nhận cá tính do kinh nghiệm cá nhân trong kiếp này và muôn ngàn kiếp trước tạo nên là bản ngã. Vì cá tính riêng của tôi, tôi ghét sầu riêng nhưng ưa nước mắm. Nhưng nếu tôi sinh ra và lớn lên ở miền Đồng bằng Cửu Long, chắc tôi đã yêu mến sầu riêng.

Tất cả những kinh nghiệm của cá nhân tôi tạo cho tôi một cá tính riêng biệt, và đặt căn bản trên cá tính này tôi có những nhận thức về mọi hiện tượng chung quanh tôi. Chúng ta ai cũng biết nhận thức và kinh nghiệm thay đổi theo thời gian và không gian. Và vì sự thay đổi này, cá tính của mỗi người cũng thay đổi, có lúc nhanh, có lúc chậm. Chúng ta hãy nhìn sự thay đổi của chính cá nhân chúng ta và gia đình chúng ta từ hồi còn sống ở Việt Nam cho đến bây giờ sau bao nhiêu năm cư ngụ tại Hoa Kỳ. Cá tính do kinh nghiệm tạo thành, và kinh nghiệm tạo thành nhận thức về những gì mình nghe được, thấy được, ngửi được, nếm được, sờ được, và biết được về những gì xảy ra hay đã từng hiện hữu ở chung quanh chúng ta. Nhưng những gì xảy ra hay hiện hữu ở quanh ta đều thay đổi và không độc lập một mình nó mà tất cả đều do nhiều nhân duyên khác nhau dựa vào nhau để sinh tồn cũng như hủy diệt. Do đó cá tính chỉ là một tổng hợp của nhiều thái độ trải nghiệm trong quá trình nhận thức của ngũ uẩn và phản ứng của tâm, và nó không phải là một thực thể độc lập và trường tồn. Vì tôi ngỡ cá tính là bản ngã nên trước kia tôi không hiểu được nghĩa chính xác của danh từ “vô ngã” trong Phật giáo.

Như vậy, cái tôi không phải là một thực thể độc lập. Chính sự ngộ nhận cho là nó có thật nên ai cũng xem cá nhân mình là trung tâm vũ trụ trong liên quan của mình với thế giới hiện tượng bên ngoài. Chính vì không biết và mình không thấy được sự trống rổng và vô thường của vạn vật, và vì do thói quen dùng cái tôi ảo huyền để nhận định và xét đoán mọi việc xảy ra trong tương quan giữa cá nhân mình với ngoại cảnh trong đời sống luôn luôn thay đổi mà mình cứ cho là có thật và vĩnh cửu. Khi chúng ta tìm ra sự thật là những gì mà mình nghĩ có thật thì chỉ là ảo tưởng, và những gì mình nghĩ là trường tồn thì không nằm ngoài định luật vô thường. Ngược lại vì vô minh, chúng ta không chịu chấp nhận những sự thật mà mình không thay đổi được theo ý nghĩ và ước muốn của mình nên cố lòng tranh đấu chống lại một cách vô vọng. Vì cái tôi không có thật mà mình lầm tưởng là có thật, và vì mọi pháp đều vô thường mà minh lầm tưởng là vĩnh cửu nên mình mới thất vọng và đau khổ. Vô minh chính là gốc rễ của mọi ưu phiền!

Khi chúng ta hiểu được lời Phật dạy rằng cái tôi là ảo tưởng, chúng ta mới có thể không còn dùng nó làm căn bản cho tất cả tư tưởng, lời nói và hành động của mình. Cái tôi luôn luôn là những nguyên nhân chính gây ra đau khổ làm mất hạnh phúc cho mình và tha nhân. Vì cái tôi, chúng ta mới sinh lòng tham, giữ lại cho mình thật nhiều, muốn nhiều thứ thuộc về tôi và trở thành "của tôi." Vì tham mình chẳng bao giờ thấy đủ cho nên lúc nào mình cũng không vui vì thấy mình còn thiếu thốn quá! Vì ở Việt Nam có bao người thiếu công ăn việc làm, con cái thiếu học, gia đình thiếu thuốc thang khi đau ốm, mọi người thiếu tự do nên bà con chúng ta muốn di dân sang Mỹ. Khi qua sống ở Mỹ, trừ tự do, nhiều người vẫn thấy không đủ, và có thể cảm thấy thiếu hạnh phúc hơn xưa khi nhìn quanh thấy toàn giàu sang phú quí! Vì tham nên mình ôm giữ, quí mến, bám víu rồi trở thành lệ thuộc, và rất sợ mất vì vậy nên có sân, si . Khi của tôi bị mất thì tôi tiếc thương, nhung nhớ, buồn tủi, tuyệt vọng, lắm lúc nổi khùng điên; khi bị mất vì cưỡng bách, chiếm đoạt hay trộm cướp thì đâm ra tức giận, thù ghét và sinh tâm ác muốn trả thù. Mình có thể không cầu lợi, không mê giàu sang phú quí nhưng mình còn ham danh. Ai ca tụng thì mình ưa mến muốn gần gũi họ; ai nói xấu thì mình không bao giờ muốn thấy mặt và trở thành thù nghịch.


Theo Phật giáo, tham, sân, si là cội nguồn của bất bình, thiếu hạnh phúc, đau khổ; và cội nguồn của đau khổ là cái tôi hư ảo vô thuờng và lòng tham phát sinh từ đó. Vì thế, những người xem trọng cái tôi thường ngạo mạn, tự cao tự đại, hay chê bai kẻ khác gây ra thù ghét, có nhiều kẻ thù hơn bè bạn. Họ ít khi cảm thấy vui trong lòng và tìm được hạnh phúc thực sự. Hạnh phúc chỉ đến với họ trong những lúc họ hơn, họ thắng trong tranh đua hằng ngày, hay trong những lúc họ tự cho mình hơn kẻ khác, và cho rằng những ai không đồng ý với quan điểm tự đánh giá của họ đều là ngu dốt. Trong lúc đó những  người  khiêm nhường  ít  khi  phê phán chê bai, phản ảnh tinh thần từ bi có nhiều bạn ít thù và lòng họ bình thản thảnh thơi hơn (tâm xả). Thường thường chúng ta nghĩ rằng tính tự kiêu (có cái tôi lớn) hay khiêm nhường (không xem cái tôi quá quan trọng) là bẩm sinh. Như tôi trình bày ở trên, bản tính "trời sinh" này chỉ là kết quả hỗn hợp nhào nặn ra của bao nhiêu kinh nghiệm trong kiếp này và bao nhiêu kiếp trước. Nó không phải là một thực thể tự nó sinh ra, tự nó tồn tại và mãi mãi không thay đổi. Sự thật  này  đem  may  mắn  cho  chúng  ta  vì mình có thể tu sửa để thay đổi bản tính của mình và không còn lệ thuộc vào ảo tưởng về bản  ngã  để  tìm  thấy  hạnh  phúc  thật  sự trong đời sống này như lời dạy của Đức Thế Tôn.

Xem thêm:
Đọc thêm..